Friday, December 28, 2012

85. PHẠM NGỌC LƯ Truyện ngắn TÀN ĐÔNG





Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 tại Huế.Trước năm 1975, dạy học ở Tuy Hòa. Khởi viết từ năm 1963 và cộng tác với các tạp chí văn học tên tuổi ở Sài Gòn: Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật, Khởi Hành, Trình Bày, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Anh đã xuất bản 2 tập thơ: ĐAN TÂM (2004), MÂY NỔI (2007).
Phạm Ngọc Lư xuẩt sắc cả về truyện ngắn và thơ. Cuối năm, chúng tôi xin giới thiệu một truyện ngắn của anh: TÀN ĐÔNG. Truyện lấy bối cảnh ở Củng Sơn, cách Tuy Hòa khoảng 50 cây số về phía tây, viết vào năm 1970, thời điểm mà cuộc chiến đang diễn ra vô cùng ác liệt.  (PCH)



PHẠM  NGỌC  LƯ
T à n  đ ô n g 

Phòng trong, người bạn gái ú ớ nói mê sau một hồi nghiến răng trèo trẹo. Lúc Kiền dậy mở cửa đi tiểu, tiếng gà rừng đang gáy eo óc phía bên kia bờ sông, nghe thật gần. Sương trắng đục xóa mất các ngọn cây cao trong vườn. Chừng này, khoảng 4 giờ sáng là cùng, mới thấy bóng đèn dầu le lói bên ngôi nhà hàng xóm thức dậy xay bột, tiếng cối xay kêu rù rù, đều đều. Kiền trở vào nằm xuống chiếu lại, tỉnh ngủ hẳn, mắt mở khô thao láo. Người bạn vẫn nghiến răng tiếp, nghe thoáng như con mọt đói ăn nào đó dậy sớm đục khoét cái cột nhà hư mục. Mấy đêm nay trời bớt lạnh, cơn ho nguôi dịu nhưng ngực Kiền chừng như rỗng đi, anh có cảm tưởng không còn đủ hai lá phổi bình thường để thở nữa. Chua miệng, thói quen thòm thèm khói thuốc buổi tinh sương dày vò Kiền, anh nghĩ, thì cứ hút để khạc ra những búng đờm xanh màu rêu non, chưa sao ! Kiền ngồi dậy lúc phòng trong có tiếng dép kéo lệt xệt. Ánh sáng ngọn đèn vừa thắp lọt qua những khe ván hở ngã dài xuống cạnh chân Kiền vài sợi mảnh. Cánh cửa xịch mở, người bạn gái quấn chiếc khăn len quanh ngực bước ra, đi thẳng xuống nhà dưới, chắc nàng không thấy cái bóng Kiền ngồi thù lù trong tối. Kiền bật lửa đốt thuốc, nằm ngửa ra giường hút từng hơi chậm rãi. Khói thuốc dịu, ấm, váng vất trong đầu chút xây xẩm nhè nhẹ, Kiền khép mắt thèm có một giấc ngủ bay bổng thật cao. Bay khỏi mái ngói mốc rêu, bay qua những tảng mây chì nặng trĩu xuống thấp giữa thung lũng, vượt qua những đỉnh núi vây hãm bốn phía để bay về ôm một mặt trời nồng ấm ở phương nam, nơi có nắng mượt như lụa trên những đồng lúa non. Nhiều đêm Kiền mải mê dong ruổi theo cơn mộng mị của ngày về phố gặp lại bạn bè, người-tình-bất-trắc, đi qua những con đường lát nhựa sạch, có hoa nở vàng rộ trên hàng cây táo nhơn, có quán nước đèn hồng trổi nhạc liên tục và chen chúc giữa vô số thiếu nữ chưng diện chải chuốt thật quyến rũ như thể đi trong ngày hội và… được ăn một miếng cá biển tươi, được nghe tiếng sóng ru tình sầu…Thành phố ! nơi nương náu hồi chưa bị đày lên đây, thứ đời sống lông bông của một kẻ độc thân côi cút giữa phố ngoài chợ ngày ấy không ngờ lúc này cứ hành hạ trí tưởng Kiền ru rú nuối tiếc. Đêm thức giấc choàng dậy tỉnh mộng, mộng ảo còn dật dờ, hồn như chưa kịp nhập về, thân xác ê ẩm bải hoải, giật mình nghe tiếng ngựa hí sau chuồng, tiếng cối xay bột, tiếng gió núi hú ma thiêng, thẫn thờ nhớ ra mình đang nằm giữa nơi thâm sơn cùng cốc, Kiền muốn chảy nước mắt.
       Chờ một ngày về lại thành phố, trốn thoát khỏi nơi rừng sâu nước độc nầy, Kiền mang cảm tưởng tội nghiệp của con thú đang chờ thời mọc cánh. Vâng, phải có cánh mới bay vượt qua khỏi trùng lũy đồi núi chồng chất vây bủa chung quanh. Núi Cấm hiểm trở, núi Một vòi või, núi Lá rậm rì… và rừng Hỏa-thán thâm u, rừng Hàm-long điệp điệp. Suốt tháng nay chưa có một ngày nắng lớn, mặt trời không xé nổi mây, mây tụ tập càng lúc càng dày, xuống thấp mãi, sát ngọn cây, đụng chóp nhà, cho đến một buổi sáng mở cửa ra : mặt đất mù mịt như có khói lan tỏa, sương kín dày, khí lạnh phả vào mặt, xanh tái da. Chiều hôm đó Kiền nhuốm bệnh, cảm cúm ho hen kéo dài cả tuần. Cơn ho dây dưa như một người bạn ồn ào bất ngờ đến khua động cảnh sống tĩnh mịch mòn mỏi ngày ngày. Kiền có cơ hội nhớ tới tấm thân ốm o vô tình quên bẵng lâu nay, lo lắng sợ hai lá phổi nám mỗi khi ôm ngực ho, dướn cổ khạc đờm hay bặm môi chịu đựng từng mũi thuốc chích vào mông.
       Người bạn gái trở vào, ngập ngừng trước cửa phòng, ý chừng vừa ngửi thấy mùi khói thuốc nên khẽ lên tiếng hỏi vọng :
        - Anh Kiền thức dậy lâu chưa ?
       Kiền xoay nghiêng người thả rơi cái tàn thuốc xuống đất trả lời bạn :
       - Trước chị ít phút. Đêm dài quá rán ngủ mấy cũng không hết.
       Nhà dưới, ai vừa đốt một bếp lửa lớn, củi than nổ lách tách. Ánh lửa sáng hừng nung mặt tường đất nhồi rạ thấm nước, thoang thoảng thơm mùi gạch đang chín. Phòng trong, người bạn gái nói vọng ra :
       - Lát có nước sôi anh chích thuốc nghe ?
       - Chị lo cho tôi quá tôi bệnh thật mất thôi !
       - Thế lâu nay anh giả đò ốm đấy à ?
       - Tưởng tượng thì đúng hơn.
       Kiền cười khan trong cổ, nhột ngực anh bật ho vài tiếng ngắn không dằn kịp. Trời vẫn chưa sáng hẳn. Vài cơn gió sớm theo một ngách hở nào đó luồn vào chỗ Kiền nằm lạnh rủn. Sương rơi từng loạt ngoài vườn nghe tưởng trời rớt mưa. Kiền đốt điếu thuốc khác, nói với bạn như lời tự nhủ mình :
       - Liệu hôm nào về thành phố đây ? Gần Tết rồi thấy nôn nao như trẻ con. Chỉ sợ không đón trực thăng được kẹt lại trên này thì tủi lắm.
       - Về dưới, sắm được cái áo mới là cùng, ham chi ! Tết ở đâu tôi cũng vậy thôi, già rồi mà… Chớ anh coi tôi đi tu có thành đạo được không ?
       - Chị nói vậy không sợ ông Phó rầu ?
       - Hư !
       Người bạn gái xô cửa kéo ghế ra ngồi đối mặt Kiền. Áo len cao cổ, hông ngực đan rộng thùng thình như thể dành trừ hao cho nhiều năm sau thân thể còn trưởng thành to lớn thêm ra. Trong bóng tối mờ mờ trông nàng tựa con thú đang xù lông chịu rét, mái tóc chưa chải thả lòa xòa trể nãi xuống vai. Tự dưng nàng buột miệng nói thõng :
       - Mấy ông thường nhìn tôi qua cái vỏ bề ngoài. Lầm !
       Kiền lúng túng đổi thế ngồi, nhặt chiếc gối kẹp vào bụng.
       - Mới tới hơn một tháng mà đã thấy dân tình vùng nầy thật hẩm hiu. Họ coi tôi như một món quà an ủi dưới tỉnh gởi lên, ai cũng muốn dành phần. Gớm quá !
       - Thấy chị đâu có ghét gì ông Phó. Nhân vật số một ở quận nầy đấy, quyền hành lấn lướt cả ông Trưởng.
       Người bạn cười hóc hóc như kẻ uống nước vội bị sặc :
       - Đó, cái vỏ ngoài thế đó. Thì đành cười nói ra bộ thân mật với ông một chút để tránh cảnh chầu chực đợi trực thăng cả tuần lễ không được sao ?
       - Chị phỉnh tôi đặng chớ cha Phó lợi hại lắm, khó lường.
       - Cám ơn, tôi biết rõ mà.
       Luôn luôn nàng tỏ ra sành sõi trải đời với đôi chút kiêu ngạo vặt vãnh. Kiền không thích vậy, anh che tay ngáp hờ, nói khi chưa khép miệng hẳn :
       - Nói ra chị đừng phiền, chứ phải sống cảnh cây-quế-giữa-rừng thật ủ ê.
       - Anh cũng chế diễu tôi được sao ?
       Nàng rời chỗ ngồi bước xuống bếp, tiếng nước rót vào bình thủy thật ròn. Kiền hơi nhức trán vì cơn ngủ mệt còn nặng trĩu trong đầu trộn lẫn với khói thuốc đậm đặc.Gian bên, người chủ nhà đang rầy mắng đứa con biếng rét không chịu dậy học bài, giọng ông nghe cũ kỹ buồn bã như một vị thế sư thất chí bất lực trước lũ hậu sinh cứng đầu..
       Người bạn pha cho Kiền ly cà phê bột sữa Mỹ không lọc, còn nàng uống trà đường. Khi không, nàng nói như sực nhớ :
      - Tết về tôi làm mai đứa em gái cho. Hay hơn tôi nhiều. Để tôi viết thư mách nó trước nghe. Nhưng phải đàng hoàng đó, nếu cà chớn nó dám giết anh như chơi !
       Kiền nhìn bạn đang cười khúc khích ranh mãnh và cảm thấy ơn ớn ngụm nước chưa kịp nuốt.
       - Chị coi mắt tôi kỹ chưa ? Đâu đến nỗi phải lầm bọn ma giáo.
       - Đâu dám đùa anh. Mình chỉ ngại cô em còn bé dễ nông nổi.
       Sương mù dày mịt xóa hẳn phía bờ sông, những thôn xóm lân cận mất tăm tích. Chốc chốc vài tàn cây cao hiện ra lờ mờ trông như những vết mực xám bẩn rớt nhòe trên tấm màn ướt sỉn trắng đục. Học trò đã đi học ngoài đường, ghé vào quán moi bạc cắc mua mỗi đứa một cây đèn sáp đút vào cặp.
       Người bạn vừa vấn tóc vừa bước qua phòng. Kiền hút thêm điếu thuốc vẫn chưa đủ ấm ngực.
       - Trưa nay anh có về sớm nhớ mượn xe lên Suối Trong đón tôi giùm. Hai hôm rày chích thuốc ngừa cho mấy buôn Thượng khổ lắm, phải mất công giảng giải từ cây kim tới lọ cồn. Đi chung xe quận do cha Phó lái dễ bị thiên hạ chửi nữa.
       Kiền bước ra hàng hiên vươn vai thở nhịp nhàng, hơi lạnh chạy rõ từng sợi vào cuống phổi. Ngồi xuống bậc gạch, anh phà hơi ra lòng bàn tay như phà khói thuốc. Lạnh thật. Kiền ngẩng mặt nhìn tốp đàn ông Thượng đeo khố lủng lẳng đi ngang, phơi trần cặp mông nâu như đồng chín, chai lì, hầu như không còn xúc giác. Người bạn gái trong bộ đồ mới bước ra, đong đưa cái xắc có chữ thập đỏ quàng nơi khuỷu tay gây tiếng chai lọ va chạm nhau lổn rổn, cười với Kiền rồi đi xuống ngõ. Kiền ngó dấu guốc nàng in trên nền sân ướt, thẫn thờ nghĩ bộ áo quần ấy trưa nay về sẽ lấm bùn hết.

Kiền tới trường lúc lũ học trò đang ngồi chờ thầy trong lớp. Chúng đốt đèn sáp cắm trên từng dãy bàn dài, nơi bàn anh cũng có một ngọn cháy leo lét. Tụi chúng cười nói vui vẻ như thể đang bày ra một trò chơi thích thú với mù sương u ám, với cảnh đêm giả trang, với lời cầu nguyện thầm lặng được thấy mặt trời thật lớn thật ấm áp đi ngang qua đây, đậu lại trên cột cờ và cùng chúng cất cao tiếng hát. Rừng muôn cây xanh cao, âm u ngàn thác lá… Ta quây quanh lửa hồng, bập bùng bập bùng, trong đêm thâu…
       Người bạn bạn dạy lớp bên cạnh đứng ngoài cửa nói chỏ vào :
       - Anh bày đặt trông ghê quá ! Giống như cái phòng đám táng.Trời mù, học trò không thấy chữ viết thì kể chuyện linh tinh cho nó nghe.
       Kiền nhún vai, bẻ đốt tay, cười :
       - Rõ khéo tưởng tượng xa xôi.  Đành làm vậy coi thử có động lòng trắc ẩn đến đất trời hỗn mang kia chăng ?
       Kiền lơ đãng ngó ra con đường cái nhão nhoẹt đất bùn, vài người đàn bà đi chợ về xắn cao quần bước co ro, cứ chực trượt chân té ngã. Sương tan bớt nhưng mây xám vẫn bất động, thấp là là. Một ngọn hỏa châu ai vừa bắn vụt lên lọt giữa hổng mây cháy sáng mờ mờ giây lát trông ngỡ như mặt trời thật. Buồn tình, Kiền bóc lá thư chưa kịp gởi cho người-tình-bất-trắc viết thêm một đoạn ngắn rồi tẩn mẩn đọc lại, mỉm cười : “Em thử tưởng tượng da dẻ anh đang mốc meo, đóng vảy cá từng bợn dày, có thể lột ra được từng phiến mong mỏng như lớp lụa bọc ngoài củ hành củ tỏi. Cả tháng không tắm mà. Hôm trước có người bạn nấu giùm một thùng nước nóng bắt anh tẩy xác, cuối cùng mình lại sợ ngã sốt và tiếc cái hơi hướm rừng rú trên người. Dưới ấy, anh nhớ mùa nầy trời đang nắng ấm. Em hãy gởi cho anh vài ánh mặt trời, một gói nắng, càng nhiều càng quý. Anh thèm lắm, thèm đến nỗi nhuốm bệnh. Nhớ gởi bảo đảm, hỏa tốc !”
       Kiền về nhà, dừng lại trước sân ngó người bạn đang ngồi giặt áo quần nơi bể nước, bọt xà phòng bay trắng phau.
       - Chị không đợi tôi lên đón ?
       Nàng ngoái cổ lui, cười phính má :
       - Gớm, sáng nay lạnh họ không chịu xuống khỏi nhà. Lưa thưa mấy mống thôi, mất công mình lên về lội bùn.
       Bữa cơm nguội lạnh, ngày nào cũng thịt nai rừng ăn muốn đi kiết ra máu. Người bạn gái gác đũa tìm tăm xỉa răng :
       - Giả thử chiều nay anh được trực thăng chở về phố đưa vào một quán ăn sang nhất, anh thèm món gì trước ?
       - Nắng !
       Nàng dẫy nẫy :
       - Không có đùa nghe chưa.
       - Thì tôi đâu có đi được !
       Người chủ mang trà lên. Kiền rót nước ra ly đẩy về phía bạn. Nàng đang nghĩ ngợi gì đó, mặt ngẩng lên mái nhà tựa kẻ bị nghẹn.
       - Tôi ớn quá rồi anh, chắc trốn đi luôn. Đày thân con gái lên vùng nầy thật tàn nhẫn, phi lý. Cố giả vui giả cười cho quên ngày đoạn tháng mà rốt cuộc… Lắm khi tôi quên bẳng anh là đàn ông ở sát bên.
       Kiền không hiểu ý bạn, anh hớp ngụm nước :
       - Tôi vẫn coi chị như chị tôi ở nhà.
       Người bạn gái bỏ vào buồng mình, chặp sau xô cửa vẩy Kiền lại, ngần ngừ một lát rồi nói nhanh :
       - Anh không nghe cả xóm chợ người ta đồn um lên rằng tôi quyến dụ anh !
       Kiền hơi bối rối và xúc động vô cớ nhưng anh đáp tỉnh dưng :
       - Thì có sao đâu !


Tảng sáng, những ống loa đặt trên nóc chi thông tin phát ra những khúc nhạc quân hành ồn ào rầm rộ, làm như thể hôm nay có buổi lễ gắn huy chương cho lính. Từng tốp người Kinh và Thượng lẫn lộn, đội nón, trùm áo tơi ni lông từ các ấp mạn tây theo quan lộ đang xuống ngang chợ. Vài kẻ tuột lại sau, bỏ hàng ngũ chạy vào mấy chòi tranh bán bánh cuốn ăn vội vã. Số còn lại rẽ vào quận lỵ, vung tay hô to khẩu hiệu. Cha Phó chống ô đứng trên hàng hiên nói chuyện với mấy ông ấp xã, mặt cau có bực dọc.
       Hội trường ẩm thấp, nước dột có vũng trên nền xi măng, vách tôn chảy sét. Hơi người sực nức, chua, hôi, nhưng khá ấm. Kiền muốn đổ mồ hôi, nực nội, khó thở. Gã trưởng chi thông tin lên trước micro đánh nhịp cho đám đông cùng hát bài “nhân dân tự vệ”, họ hát và vỗ tay dậm chân, ngúc ngắc đầu như say sưa hết lòng với lời ca cương quyết bảo vệ xóm làng. Trước mặt ông Phó, họ không muốn bị chửi mãi là bọn ươn hèn nằm nhà ôm đít vợ ngủ. Ít ra giọng hát rầm rập kia còn biểu lộ tinh thần hăng hái của lớp tuổi đáng vai vế cha chú ông Phó. Hết phần báo cáo và kiểm điểm công tác trong tuần, Kiền lấy cớ phải về trường coi học sinh, bỏ về nửa chừng, lúc cha Phó đang lớn giọng dặn dò mấy ông xã ấp cách thức phân phát tôn, xi măng… Cuối mỗi câu nói ngắn, ông hứ lên một tiếng (thật hách dịch, chói tai) như nhắc nhở đám người ngồi phía dưới hãy nghe cho kỹ càng hơn. Bên ngoài, từng tốp dân tị nạn đang ngóng cổ chờ cửa kho mở để lãnh vật liệu trợ cấp.
       Trời lay bay mưa bụi, mây cuốn lên cao bày ra những lưng núi thẫm. Đồng không xám xịt gốc rạ thối màu bùn tro. Ngang qua sân bay lót vỉ sắt cỏ mọc từng chòm lỗ chỗ, Kiền nhớ mấy hôm nay không nghe tiếng trực thăng tiếp tế hạ. Có trực thăng lên xuống đều, người dân sống ở đây an tâm hơn, mường tượng thấy chốn núi rừng cô quạnh nầy còn có một chiếc cầu nối liền với tỉnh lỵ rồi hy vọng một chuyến đi, mơ mòng bao cảnh vui chơi ngựa xe nhộn nhịp dưới phố.
       Kiền ghé chi y tế xin thuốc nhưng người bạn gái bỏ đi đâu vắng. Khắp phòng, giường bệnh xô lệch, chiếu chăn dồn thành đống bẩn. Chỉ có một bóng người không rõ đàn ông hay đàn bà ngồi run rẩy trong góc, phủ cái mền dạ kín đầu. Kiền từng nghe người bạn than thở nhiều lần : “Ở đây khỏe ru, thuốc men thiếu, chẳng có việc làm. Năm thì mười họa mới thấy vài người Thượng ghé xin thuốc quinine. Ông trưởng chi mở phòng mạch riêng hút hết bệnh nhân, chưa kể một lô y tá đạp xe đi sâu vào các ấp chích dạo và bán thuốc”.
       Chợ tan sớm, chỉ còn tốp học trò lêu lổng bu quanh mấy bàn xóc bầu cua. Người chủ nhà dừng xe ngựa chào Kiền rồi nhảy xuống đất đi vào đám đánh bạc đông đúc những cái đầu con nít chụm lại. Hẳn ông muốn tìm coi có mặt thằng con hoang đàng không ? Kiền ghé mua bao thuốc bóc hút. Hai chị em cô gái bán hàng tạp hóa chỉ cho nhau nhìn con ngựa đứng đái ồ ồ bưng miệng cười khúc khích, mặt đỏ bừng.


Thức dậy trời đã xế chiều, chừng như thế, ai đã thắp một ngọn đèn dầu tù mù đặt giữa nhà, Kiền nằm cuộn trong chăn muốn ngủ tiếp. Con ngựa hí gió sau chuồng, dậm móng bịch bịch xuống đất đòi ăn thì phải. Người chủ nhà đang khuân xi măng chất vào gầm phản, thở ì ạch.
       - Lãnh đâu nhiều vậy ?
       - Mua. Lần nào cũng thế, tụi Thượng lãnh khỏi kho vội vác ra chợ bán tháo bán đổ. Rẻ mạt. Họ đâu cần thứ này, muối gạo no bụng mới quý !
       Người bạn về muộn, Kiền ăn qua loa bữa tối một mình. Anh vói tay lật quyển lịch treo tường tính nhẫm ngày rời khỏi đây về phố ăn Tết, gặp lại người-tình-bất-trắc để tả oán khoảng thời gian nằm co ro giữa cái lòng chảo giá lạnh sét rỉ nầy. Cuối đông, ngày giờ như đi chậm hơn, để Kiền càng thấm thía hơn với một năm lao đao chưa vội kết thúc. Người chủ nhà mặc thêm chiếc áo nỉ cũ, rùng mình xuýt xoa nói :
       - Gần tiết đại hàn, trời lạnh dữ !
       - Giá có một cái lồng ấp thì thích nhỉ !
       - Kiếm cô vợ tuyệt hơn. Chừng ấy tuổi, thầy còn chịu được cảnh giường không chiếu trống kể cũng lạ. Lạnh lẽo thế nầy…
       Người bạn gái về, áo quần lấm ướt, mặt tái nhợt. Nàng lục xắc lấy cái thư trao Kiền :
       - Có ảnh con em ở trong. Xem thử vừa mắt không ?
       Kiền rút ra tấm ảnh 6 x 9 đưa sát ngọn đèn nhìn chằm chặp. Mắt anh khựng lại mơ màng, trí nhớ lần mò quanh co.
       - Học trò của tôi bốn năm trước, tưởng ai lạ !
       - Dốc !
       - Phải Túy Loan không ?
       Người bạn ngó sững anh ngạc nhiên, giật lại tấm ảnh nói dỗi :
       - Anh thật quỷ quái. Nhớ chi mà dai thế.
       Nàng vùng vằng đi vào buồng khép mạnh cửa, tắt đèn. Kiền còn thức tới khuya đọc hết cuốn truyện mượn của ông Phó, mãi khi nghe tiếng  nghiến răng quen thuộc từ phòng trong vọng ra mới đi nằm.
       Hôm sau người bạn ngã bệnh, Kiền bỗng dưng đâm ra lo lắng như thế chính mình gây nên nguyên do. Anh xuống bếp bưng cháo vào tận buồng nàng, pha nước khuấy sữa, xăng văng hỏi han về bệnh tình thuốc thang liền miệng. Nếu không ốm thật, nhìn bộ điệu rối rít của anh chắc người bạn đã bật cười.
       - Anh yên tâm, tôi chỉ bị cảm sơ sơ thôi.
       Nhưng đến đêm nàng lên cơn sốt dữ dội, lăn lóc vùng vẫy trên giường. Kiền hoảng hốt gọi người chủ nhà dậy, ông ta cũng lớ quớ ngơ ngác chẳng biết xoay xở ra sao. Kiền thúc hối rối rít :
       - Bác mang đèn đi gọi ông trưởng chi mau.
       Lão chạy ra khỏi buồng vấp bàn đụng ghế lịch kịch. Người bạn gái uốn cong mình dẫy dụa, mặt nhăn nhó đau đớn, kêu khan :
       - Đè chặt tôi lại coi… Sao cứ bay bổng lên !
       Kiền e dè cúi xuống dằn tay bạn. Bất ngờ nàng ôm chầm lấy anh lôi ngã sấp lên ngực, hơi thở nóng ran, hổn hển, dồn dập. Kiền nhúc nhích cựa nhẹ mình nhưng không dám gỡ vòng tay bạn đang quấn quýt siết chặt trên lưng. Anh cứ dại dột nghĩ nếu xô bạn ra chắc nàng sẽ chới với chết mất.
       - Chị không đến nỗi nào chứ ?
       Kiền nói lắp bắp, không ngoi lên khỏi sự lo âu trìu trĩu. Người bạn rên hừ hừ, mắt nhắm kín, miệng lại ú ớ nói sảng. Trời đổ mưa rào rào bên ngoài, càng lúc càng dữ dội. Căn nhà hình như chôn chân trên mặt nước xô động chòng chành. Mồ hôi bạn thấm ướt áo, Kiền se lạnh. Vòng tay quanh lưng nới lỏng dần rồi nàng khẽ đẩy anh ra, nằm ngay người, kéo chăn đắp tới cổ. Kiền ngỡ ngàng nhốm dậy, rời khỏi giường, chóng mặt, lảo đảo. Tiếng ngựa hí ngoài chuồng tựa tiếng cười nhạo báng vang lên từng chặp. Dứt mưa, cái im lặng quanh nhà thật sắt se, không một tiếng giun dế, có lẽ chúng ngủ quên hay đã chết tiêu dưới lòng đất úng thủy từ lâu, cả tháng nay kẻ nhớ nhà không còn nghe giọng kêu ca nỉ non đứt ruột. Người chủ nhà xô cửa mang đèn vào, mình mẫy ướt lột, nói giọng bực dọc :
       - Ông ấy đi đánh bạc xó nào hỏi mãi không ra.
       - Phiền bác quá. Chị ấy ngủ yên rồi, chẳng sao. Bác đi nghỉ đi, có tôi canh chừng.
       Bỗng một tiếng nổ vang ầm rung đất. Từng tràng súng khác nổ tiếp theo, nghe quá gần, đâu dưới xóm chợ, càng lúc càng gần thêm, phía trường học, trụ sở xã. Trời sáng rực bên ngoài, hình như có lửa cháy. Mé sông, ngoài vòng đai chi khu, đạn nổ rát hơn. Súng cối bắn đùng đùng tới tấp, bay vèo vèo trên đầu. Vách nhà rung chuyển liên hồi. Phòng trong người bạn kêu ơi ới. Kiền sực nhớ, bỏ chỗ núp dưới gầm phản chạy vào, thở hào hển, cứng miệng nói không ra tiếng. Anh lôi bạn xuống khỏi giường, nàng thất thần ngã vào người anh mềm nhủn như kẻ vừa trúng đạn chết không kịp ngáp.


Phòng Kiền dạy sập một góc mái, gạch ngói nát vụn chôn vùi năm sáu bộ băng bàn gãy tung, cháy xém, chân cẳng nằm chỏng chơ thảm hại. Đạn khoét rỗ mặt tường, giật tung các cánh cửa vứt xuống thềm. Kiền ngậm ngùi ngó những đứa học sinh ôm cặp đến lớp như thường lệ. Chúng ngơ ngác  đứng nhìn cảnh đổ nát, có đứa tay còn cầm cây đèn sáp mới mua, vài đưa bỏ đi nhặt vỏ đạn. Kiền ngậm điếu thuốc, hết buồn châm lửa hút.
       Trời lạnh, ba cái xác chết còn tươi bỏ nằm tênh hênh trên bờ ruộng. Đám đông hiếu kỳ tản dần. Một người chỉ cái tử thi nhỏ thó, trẻ măng cỡ 15, 16 tuổi nói giọng tiếc rẻ :
       - Thằng nầy là học sinh mới trốn theo nẫu, dại dột chết uổng. Thầy nhớ nó chứ ?
       Kiền nhìn khuôn mặt thâm tái dính đầy máu cục bùn đất, lắc đầu bỏ đi.

PHẠM NGỌC LƯ
Tháng 12.1970                                                                                   
                                                                                    
(Tạp chí Bách Khoa số 344)

Chú thích:
Gần cuối truyện, Phạm Ngọc Lư viết, " Thằng nầy là học sinh mới trốn theo nẫu...". "Nẫu" là tiếng địa phương ở Phú Yên, có nghĩa là "người ta, hoặc một người nào đó không xác định rõ". Trong bài dân ca bài chòi Phú Yên TRÁCH PHẬN do Phan Bá Chức và Nguyễn Hữu Ninh cải biên, có câu: "Bởi thân tui tui cực khổ tui eo nghèo nên dzợ tui nó không ở nữa nó theo nẫu rầu", được hiểu là: "...nó theo người ta rồi". Thử nghe bài dân ca TRÁCH PHẬN do chính Phan Bá Chừc trình bày bằng giọng của người Phú Yên để hiểu thêm nghĩa của từ "NẪU".
PCH

 Ảnh: Internet


Dân ca bài chòi Phú Yên
Lời: Nguyễn Hữu Ninh
Nhạc: Phan Bá Chức
Trình diễn: Phan Bá Chức
Y o u t u b e

 8 5