Nhà thơ Đặng
Tấn Tới sinh năm 1943 tại An Nhơn, Bình Định, tác giả của các tập thơ:
MƯA
MẮT TÌNH 1968
TÂM
THU
KINH 1970
TUYỆT
HUYẾT CA 1972
THI
THIÊN 1973
TRÚC
BIẾC 1974
Năm
2012 Đặng Tấn Tới bị stroke, từ đó đến nay ông phải ngồi xe lăn.
Nhà thơ Đặng Tấn Tới
Trích thơ:
CHỢT
CẢM
Bao nỗi nhọc nhằn lắng chút thơ
Thểm rêu, sương đọng ánh trăng mờ
Tình em thầm lặng xanh màu lá
Soi biếc đời nhau thoáng sững sờ
NÚI
MÙA XUÂN
Đỉnh non xuân thấm lạnh
Lưng chừng sông khói sương
Lòng hư không trống lặng
Đậm nhạt quán triều dương
CUỘC
CHƠI
Im lặng lòng trăng khơi
Sáng tươi trí mặt trời
Chưa bao giờ ngừng tới
Sao nguồi bỏ cuộc chơi?
NGÀY
SAU
Đi
vào mây nước thẳm
Còn
hạt cát vu vơ
Ngày
sau ai nắm được
Cảm
thật đến ban sơ
TRẦN
GIAN ĐANG THỞ
Thời gian tràn mãi mãi
Trước sau chưa một giây
Không thấy và không đấy
Trần gian đang thở say.
GỞI
NGƯỜI XƯA
ĐÃ
ĐỂ LẠI CHO NGƯỜI SAU
Tài
tử duyên còn gặp
Thất
thanh cười khóc nhau
Trăng
tình chung chảy máu
Hừng
hực lửa thơ mầu
HOA
VASSIKA
Hoa
rơi từng cánh úa
Phấn
lụa mặc lòng mơ
Hương
tình đâu bén nữa
Trăng
sáng vườn ban sơ
CÁNH
BIẾC
Đàn
hạc xuân về biếc
Trời
vui theo cánh lưa
Ngàn
cao không dấu vết
Hồn
đẹp thoảng xa đưa
SUKHAVAGGA
DHAMMPADA
Đất
trải lòng chân thật
Thân
trần lượng nước qua
Đâu
hận thù còn mất
Vô
thình rêu thắm hoa
TÂM
KHÚC
Nếu
không, lòng chẳng đợi
Như
có, hồn đâu đau
Trời
xanh ngát mãi sau
Trăng
sao còn chín tới
CÒN
NHAU
Chút
lòng trong cát bụi
Sáng
ngoài hương cỏ cây
Đêm
trăng tơ mềm núi
Ta
còn nhau ngắm mây
NGŨ
TUYỆT
Ngàn
thu trang cỏ vắng
Nở
hoa sương một đêm
Một
thoáng hương dịu mềm
Long
lanh lòng bất tuyệt
TÌNH
CÁT BỤI
Một
ít tơ xanh rụng tóc hồ
Nơi
đâu là nghĩa trắng hư vô
Bao
nhiêu gương thắm đằm gương nước
Soi
đến không cùng đất bạc thô
Mỗi
ngày tôi vẫn đến bên chân
Thả
chẳng xa và nắm chẳng gần
Đôi
mảnh thơ hồng hương đắm đuối
Ơi
tình cát bụi mãi còn ngân
MẦU
XỨ SỞ
Tôi
còn lại bên bờ non biển thẳm
Đợi
bao lần xa mất giữa trăm năm
Sầu
hoang loạn xứ sở nào bước gặp
Mạch
thơ mầu cổ lục mắt đăm đăm
Người
từ buổi lên đường mang lửa đốt
Gió
sương mùa thao thức mầu long lanh
Sông
reo sóng trường sa hồn phiêu hốt
Dội
diêu tàn biền biệt xuống xuân xanh
Tôi
nay đứng trên đường thương thế kỷ
Ngả
mười lăm mười bảy đã qua nhanh
Lời
mời gọi vô cùng cơn lâm lụy
Ánh
hoa đời ngời rạng suối tình anh
CÁT
BỤI THƠ
Đây
xương máu còn xanh sông núi
Nọ
linh hồn vẫn suối tình mơ
Bao
nhiêu bước mất, chân chờ
Gặp
hoài trong cát bụi thơ tuôn trào
THU TÂM
1
Thu già len cốt tuỷ
Cựa hạt máu bao trăng
Vắng cao đường ảo dị
Lồ lộ bụi trần lăn
2.
Áo thơ mầu lạnh bạc
Thân cố thổ niềm đau
Tin nhau rừng biển lac
Trầm tịch máu mưa ngâu
3.
Đèn lạnh nghiêng lòng sách
Đèn lạnh nghiêng lòng sách
Chữ rơi vàng lá đưa
Người xa, thu bước quạnh
Đồng vọng tiếng ma xưa
4.
Ẩn thân cùng cát bui
Bạc trắng cả sầu đau
Làng mây thu nhóm củi
Lửa rực đỏ gò lau
5.
Tình thu gầy dáng núi
Sông máu dậy nguồn đau
Lửa riêng trời gánh củi
Lòng rỗng mấy vồng rau
6.
Đóng đinh ngoài cửa Đông
Năm năm máu chảy ròng
Ý cả đầu non bạc
Tình sâu thao thiết song
MỘT HÔM
Một hôm cánh hạc về trời
Cánh hoa về đất, cánh đời về đâu
Cánh mây cánh gió về đầu
Sóng hương bóng sắc về thâu canh rằm
Cái gần tận cái xa xăm
Lối về trong bước đi đằm đằm tim
Đất ơi ! Chẳng nổi không chìm
Trời xanh rất trắng con chim đại hồng.
QUÊ NHÀ
1.
Không lưu lạc đất khách
Quê nhà chớm bạc đầu
Bao năm thân thế huyễn
Một sớm thẹn mày râu
Nào đâu đường lối trúc
Hoang thôn bước dãi dầu
Chẳng được như người trước
Am cỏ chí vô cầu
Ngàn năm câu thanh khí
Giọt lệ thấm ngàn thâu
2.
Bao năm dài kín cửa
Bụi vẫn bám tình quê
Chưa quên hết một chữ
Có chăng ta đã về
Thời thế không lời nói
Phàm thánh chẳng còn chi
Núi xanh lòng xử sĩ
Trăng tỏ ý trời ghi
VỀ VƯỜN
1.
Ngày xa, không ước hẹn
Về lại, chuyện đâu ngờ
Vườn hoang khô đất đá
Chân ngập ngừng bâng quơ
Lỡ mùa theo đậu sắn
Vui vân trúc am che
Nuôi thánh thai tròn lớn
Phiêu phiêu ngọn gió hè
2.
Vườn xưa người bỏ lại
Hôm sớm anh em về
Xới đất trồng rau cải
Bình thường mộng gối quê
Rào thưa như hạn bước
Sách nát, chí đâu cùn
Một nhát cuốc Vô Trước
Đầm đìa mạch Nước phun...
TRƯỚC
ĐÈN KHUYA
Việc
vặt trong ngày vừa tạm yên
Khuya
chong đèn nhỏ sáng trời riêng
Còn
nuôi một điểm hồng trang trắng
Bút
mực về xa, nồng lửa thiêng
TÌNH
THƠ
Tặng Duy Khương
Đâu
đó khu vườn thơ bỡ ngỡ
Lối
về nắng lụa, gió hương vây
Lược
trăng rẽ lệch đường ngôi tóc
Nhật
nguyệt nồng reo, máu cuộn ngày
Bàn
tay đan ấm thời gian ấy
Bay
bổng tình đôi theo cánh chim
Ta
dẫu nhỏ hơn đời cát bụi
Em
nào ra khỏi suối mơ tìm
Luôn
thắp cho lòng bông lửa đỏ
Bên
rào thiên cổ, cuối xanh thâu
Xôn
xao biển mắt, ngàn sao gọi
Lặng
lẽ trào dâng sóng bạc đầu
Ta
đang chung bước, chi mà vội?
Lịu
địu hành trang biêng biếc sau
Ngõ
sớm, đường khuya, chân bối rối
Môi
kề tơ cỏ, cắn thương đau
TRUNG
THU
Tặng Duy Khương.
Trăng
nổi ngang đầu , mây trắng che
Đời
ta trôi chảy có bao nhiêu
Tình
em, gương sớm lòng soi tỏ
Cảm
nửa khuya thu, xế mây chiều
Em
ghé qua vườn yêu hái trái
Khi
xuân nguồn trổi điệu xa khơi
Rừng
mai hoa thả tơ vàng ánh
Lộng
mái chèo thơ khỏa sóng ngời
Để
hạ mơ nồng cơn hỗn mang
Thấm
đau từng giấc ngủ u lan
Gió
đưa lấp lánh mầu thương nhớ
Nắng
rải bờ hương bước rộn ràng
Nhịp
cầu đông giá nổi mưa sương
Lạnh
ấm chưa ngờ trắng một phương
Xuân,
ha, thu mờ trông tám hướng
Bên
kia bờ sẵn chôn-như-thường
Ơn
người, huệ núi vẫn vui trao
Một
nửa trăng, và một nửa sao
Cuộc
lớn vô cùng trong nửa nửa
Trung
thu, em mỉm nụ xanh chào…
SỐNG
LÒNG
Hồ
xanh về một tối
Người
hái đá sương sao
Sóng
vòng tay bối rối
Tình
động thấu chiêm bao
TÌNH
MÃI MỚI
Sớm
nay hoa vẫn nở
Trên
đường hương lãng du
Em
ơi, tình bỡ ngỡ
Chưa
từng xuân với thu
NÚI
MÙA XUÂN
Đỉnh
non xuân thấm lạnh
Lưng
chừng sông khói sương
Lòng
hư không trống lặng
Đậm
nhạt quán triêu dương
Đặng Tấn Tới thường dùng
thể thơ năm chữ, bốn câu, làm cho thơ ông ngắn gọn chuyên chở ý thơ cô động,
như những dòng thơ cổ, nhưng từ ngữ rất đơn sơ. Thơ ông mang lại cho người đọc
cảm giác rất đậm nét mộc mạc của quê hương.
Nguồn tham khảo:
-
Blog Người Bình Định
- Blog Mang Viên Long
- Blog Phạm Cao Hoàng
- Blog Phạm Cao Hoàng