Mùa đông -
Ảnh PCH – Scibilia, 2015
Tôi
quen ông Chu Du khi ông đã ngoài năm mươi. Tóc bạc, thưa sợi. Người gầy ốm, nét
mặt khắc khổ dù đang cười rộng miệng. Áo quần dù tươm tất vẫn ngó ra chút luộm
thuộm, chẳng mấy khi chỉnh chu. Tôi không tiện hỏi tên thật của ông cũng như do
đâu ông lôi tên một vị quân sư trong truyện Tam Quốc Chí ra dùng làm bút hiệu.
Tôi gọi ông là anh vì tuổi tác chúng tôi cách biệt quá lớn. Những đứa viết văn
làm thơ dù chúng chỉ tầm mười tuổi cũng nên gọi tôi là anh, ông Chu Du nói, vì sinh
hoạt ở lãnh vực này, kêu chú gọi bác quả thật xa cách, không nên.
Trước
khi lưu lạc sang đây ông Chu Du từng là giáo viên môn văn ở một vài ngôi trường
trung học ngoài miền Trung. Tôi quen ông trong hai trường hợp: Ngồi cùng bàn
trong buổi liên hoan do hội cựu giáo chức tổ chức và lần khác, hẹn ở quán ăn Cố
Đô để ông trao tấm ngân phiếu trả nhuận bút cái truyện ngắn của tôi vừa được in
ở tờ báo do mình ông điều khiển, tả xung hữu đột, bao thầu từ hạ tầng cơ sở lên
tới thượng tầng kiến trúc. Ông từng phê bình tôi, văn bạn khúc mắc trắc trở
quá, lại nữa nên loại bỏ bớt những từ mà báo chí trong nước ưa dùng. Tôi ghi
nhận, tự nhủ thầm sẽ cố sửa đổi. Bữa cùng ăn bún bò cay xé họng đó tôi nhanh
tay và giỏi chân chạy tới quầy tính tiền để chi trả. Tôi thành thực, chẳng ngờ
có khi được ngồi đối mặt với ông chủ một tờ báo bề thế chốn đây. Ông lau miệng,
nhớ nhé, siêng gửi bài cộng tác với tôi; cứ tưởng tượng là chúng ta mê muội phá
mồi trên chiếu rượu lai rai ba sợi.
Ông
Chu Du có làm thơ, đôi bài hơi khó hiểu. Tân hình thức hoặc hậu hiện đại gì đó.
Trộn một tí không khí thơ Đường vào tính cách cô đọng của Haiku. Và khi nói
chuyện, thường chẳng mấy suông sẻ nếu không muốn bảo ông bị tật nói lắp. Tôi đồ
chừng chắc ông từng trải qua một cơn tai biến mạch máu, ông đánh thắng khỏi bị
bán thân bất toại nhưng miệng lưỡi… ôi, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ! Ăn còn biết
quán này sở trường món gì quán nọ sở đoản thức chi. Sành điệu và ngon cơm,
không phải ai cũng thủ đắc tựa thế. Buổi gặp mặt ban sơ, ông hỏi tôi: Trước đây
anh là thầy giáo à? Dạy học ở đâu, trường nào? Tôi thưa: Dạ không, trước đây
tôi chỉ là sinh viên, có anh bạn là cựu giáo chức, ảnh kéo tới chung vui… Ông
Chu Du ngắm tôi: Tôi hiểu, tạm gọi là cảm tình viên, một thứ phô trương thanh
thế. Chẳng khó hiểu cho bằng “Đêm Trưng Vương” mà sĩ số bọn mày râu lại đông
đúc chộn rộn lấn át cả phận hoa nhường nguyệt thẹn mãi bận bịu với con đàng
cháu đống.
Có
dạo tôi tính mời ông Chu Du đến quán Hương Đồng Quê để lai rai ba sợi nhưng bất
thành, lý do tôi gửi tới ông một cái truyện ngắn trong đó nhắc tới một kỷ niệm
khó quên xẩy ra trong đêm bão tuyết. Qua điện thoại, ông Chu Du cho hay: Bây
giờ đang mùa hè, tôi đi truyện ấy e không thích hợp, hãy nán đợi tới dăm ba
tháng nữa nhé… Truyện đó tôi rất hài lòng và tôi đành thu mình ngồi đợi mùa
đông về. Kinh nghiệm kiểu mùa màng như vậy khiến lòng tôi vẩn đục về sức sáng
tác của mình. Trong hoà bình chớ nên viết tới cảnh bom rơi đạn lạc? Trong đám
cưới có kẻ nào ngồi bưng mặt khóc thầm không? Vậy thì nhà văn, anh đừng tưởng
bở để tự tung tự tác hô phong hoán vũ. Anh phải luôn nhớ tới bài hát với ca từ
như đinh đóng cột: “Không bao giờ, không bao giờ giữa mùa hè tuyết rơi”. Một
đôi kẻ yếu bóng vía đã phải thủ đắc câu này: Tên của nhân vật cũng như những
tình huống xẩy tới trong truyện đều là sản phẩm của tưởng tượng. Tác giả không
chịu trách nhiệm nếu có sự trùng hợp ngoài ý muốn. Nắng mưa là bệnh của trời,
nhưng viết xuống giấy làm ơn nên hội ý trước với nha khí tượng hoặc chuyên viên
dự báo thời tiết kẻo bị cung đàn lạc điệu. Ở quê nhà, người ta xúi phải đi thực
tế là vì vậy, người ta lập ra trại sáng tác là vì vậy và người ta đã xây riêng
một ngôi trường để dạy bạn viết văn. Viết tơ lơ mơ là không xong với tớ đâu
nhé. Đằng ấy thấy không, con két nhốt trong lồng mới biết nhái được tiếng người
chứ bọn sống với rừng sâu hoang dã thì đừng hòng! Không thầy đố mầy làm nên là
vì thế!
Rồi
thì mùa đông tới đúng với hẹn thề, cái cây chôn trong chậu giờ đây mới chịu nở
hoa. Tên tôi in ở trang bìa nằm sát cây thông, dưới hàng chữ “Số đặc biệt chủ
đề Giáng Sinh”, khiêm nhượng, khó phát hiện. Tờ báo dầy hơn lệ thường nhưng giá
bán vẫn không thay đổi. Ông Chu Du điện thoại hỏi, thứ bẩy nầy có bận gì không?
Tôi thành thật khai rằng mình là đứa tỷ phú, rất hào sảng việc chi tiêu thời
gian, thứ nào cũng vậy không cứ là thứ bẩy. Ô kê, tôi tính làm buổi tiệc nhỏ,
mùa này kiếm chỗ hơi khó nên đành chọn cái nhà hàng Tầu. Đến với anh em cho vui
nhé. Lâu nay có viết được gì không? Tôi thành tâm khai báo là viết được ba
truyện ngắn gửi cho các tờ tạp chí chẳng hề biết tới chuyện nhuận bút. Ông ậm ừ
rồi đọc địa chỉ quán Tai Fat, giờ giấc và gát máy.
Mùa
đông ở đây rất lạnh, trẻ lên ba cũng biết điều đó. Nhiều kẻ lạc quan luôn theo
triết lý “Vui để sống” nên họ xẳng xái nói “Xứ lạnh tình nồng”. Trẻ lên ba nếu
hiểu ra chắc phải khóc thét lên, hơn gặp cảnh khát sữa mẹ. Chiều thứ bảy, tôi
độn một đống áo quần tới gặp bá quan văn võ ở quán ăn nghe giang hồ đồn nổi
tiếng món vịt Bắc Kinh. Quý vị văn thi sĩ địa phương đã an vị bên chiếc bàn
tròn, mặt mày có ám chút tư lự. Địa phương giá rét nên chữ nghĩa co quắp, bàn
mười chỗ nhưng vỏn vẹn có năm mái đầu chụm lại mong san sẻ chút “tình nồng”.
Không lai rai ba sợi vì hầu như ai cũng bận việc nhà, kẻ sợ về muộn vợ càm ràm,
người nói cho em về sớm kẻo thời tiết này qua cầu xa lộ ắt chẳng êm. Họ ăn và
họ chẳng ưa tỉ tê tâm sự, đòi hỏi gì thêm khi bao nguồn cơn chúng tôi đã phơi
bày trên mặt báo, hoàn cảnh lắm anh ạ!
Kim
đồng hồ chỉ mười giờ, chén bát xô lệch riêng mình tôi và ông Chu Du chứng giám.
Mặt vị quân sư buồn như thể đấu trí mãi thua Khổng Minh. Đã đọc hết lá thư toà
soạn in ở trang đầu chưa? Khan giọng, lời nặng như có đá tảng cột vào. Tôi ngồi
làm thinh vì tôi không thể thú nhận rằng, chưa khi nào tôi phải chú mục vào
những con chữ phi lộ vớ vẩn ấy. Đọc một bài thơ rất đỗi siêu thực của ông xét
thấy đáng công hơn. Tôi có trình bày trong ấy nỗi khổ tâm của tôi và rồi tôi
quyết định nghỉ chơi. Tôi về hưu sớm, tờ báo sống được bốn năm, buồn nhiều hơn
vui và chừng đó tháng ngày như bóc lột hết của tôi bao nhiệt huyết. Tôi giam
cái truyện của bạn để dùng vào ở số cuối là có lý do, đánh dấu một kỷ niệm, một
chia tay trong tốt lành. Bữa ăn này cũng là thế cho lời tạ từ. Giờ nầy tôi mới
hiểu ra vì sao văn bạn viết luôn dấu ở đó thứ không khí ảm đạm và đầy thương
tích. Uống hết ly rượu này đi, khả năng tưởng tượng của mình dù phong phú tới
cỡ nào đi nữa cũng chẳng thế ngó ra sự chờ chực của ngày mai thường ám tối.
Đó
là hoạt cảnh sau cùng tôi nhìn ông Chu Du quy ẩn. Thành phố vắng bóng tờ báo và
tôi đồ rằng ông chủ bút đã dọn tới một thành phố ấm áp phía cực tây. Nhuận bút
ông trả chẳng lớn lao gì, nhưng tám chục bạc, lắm lúc nó giúp bạn giải hạn. Tôi
từng trải qua những ngày trong túi chẳng có lấy một xu, tự dưng tôi đâm tiếc
uổng về cách chết non của một tờ báo. Ở khu vườn quạnh quẽ này đã chẳng còn một
loài cây biết đơm bông. Thi thoảng tôi có gặp một nhà thơ nữ trong chợ, cô đi
cùng chồng thành ra ái ngại chẳng muốn nấn ná bên tôi dài lâu, chỉ vắn tắc là
ông Chu Du ở đâu tui cũng không rõ. Buồn hí? Lỡ nghe tin ông ta chết, ở đây chả
còn tờ báo nào để gửi đăng đôi dòng phân ưu. Bà nói sao a chứ, tôi nhủ thầm,
thành phố có những ba tờ báo chợ ngập mặt ra đó. Nhưng tại sao lại ác miệng
nghĩ ra cảnh ông ấy chết? Thực sự bà từng gặp một Khổng Minh vô ra chợ này rồi
sao?
Tôi
vẫn làm phận lính đánh thuê không ăn lương, gửi bài sang bên kia biên giới. Mỹ
giàu có nên hợp chủng quốc có khối báo bổ sẵn lòng mở rộng cửa để hoan nghênh
tôi đầu quân vào. Số nào có in truyện thì họ gửi bưu điện cho tôi số ấy.
Có
số đăng bài thơ hoài cảm, giọng buồn nhưng không bi luỵ, mang đủ tính cách khí
khái của một vị quan chán cảnh triều đình cởi áo treo đai. Tuy bút danh lạ
nhưng linh cảm tôi xác quyết khẩu ngôn ấy chỉ có Chu Du mới đủ hoả hầu. Tâm sự
đắng lòng kia gửi về một người trẻ đã thôi đối ẩm, uống rượu mình ta để nhớ lại
thời lai rai ba sợi đã sang trang. Tôi có hơi xúc động khi nghĩ “một người trẻ”
ấy chính là tôi. Ném một hòn cuội nhỏ dò đường, không gì hơn là trắng đêm tôi
ngồi viết ra một cái truyện ngắn kể lại những kỷ niệm về một người cựu giáo
chức, một ông Chu Du chân xiêu lạc giẫm lên xứ tuyết. Viết xong mang ra bưu
điện gửi tới địa chỉ tờ báo có đăng bài thơ “Chung Rượu Đắng”.
Dĩ
nhiên là bài tôi được chọn đăng, bởi những gì phát tiếng trong thành thực nó sẽ
mang lại ít nhiều cảm động. Vì địa hình xa ngái, tuy gửi “par avion” nhưng
phong bao nặng nề kia đến chẳng đúng với hạn kỳ, phải mất hơn hai tháng hòn sỏi
nọ mới chạm đáy giếng, sóng gợn lăn tăn. Giống như mục “Thư Đi Tin Lại” hoặc
“Kết Bạn Bốn Phương” in đầy ở các tờ báo chợ, một hôm có con nhạn la đà chui
vào thùng thư tôi nằm đẹp xấu tuỳ người đối diện. Phong bì xanh, nét chữ mềm
viết mực tím:
“Thưa
anh, chồng tôi bị tai biến mạch máu não đã tròn năm. Hơi nặng, nói ú ớ và viết
run rẩy khó khăn. Thời gian ở bên xứ lạnh tình lạnh kia tôi luôn đọc những thứ
anh trải lòng. Bài thơ mà anh đọc phải do chính tôi sáng tác, với ý nghĩ nếu có
duyên phận nó sẽ lọt vào mắt anh. Và giờ đây cái duyên bọt bèo kia đã thành
tựu. Trước đây có thể vì lu bu việc dọn nhà và do trăm chuyện ập tới, chồng tôi
đã quên gửi anh số tiền nhuận bút truyện sau cùng. Nay một kẻ tai biến mạch máu
não mới chợt nhớ ra trong ăn năn, trong sơ sót; xin gửi kèm ở đây tấm ngân
phiếu đầy lỗi lầm cùng lời chúc anh luôn sức khoẻ, viết được những điều tâm
đắc. Kính chào anh”.
Tấm
ngân phiếu 150 USD. Lạ không? Vợ ông Chu Du đẹp xấu ra sao, thể hình thế nào
tôi chưa hân hạnh được thấy qua. Bà làm thơ rất gân guốt, rất khí khái như một
trang nam tử và ắt hẳn khi mưu sinh bằng tay phải, bà làm việc cho một ngân
hàng nào đó, để méo mó nghề nghiệp tính thêm tiền lời khi trả trễ cho thân chủ.
Số tiền ấy quá lớn đối với kẻ viết mướn như tôi. Tôi đi sắp hàng ở nhà băng,
giá băng phủ trùm nhưng lòng ấm vì đối mặt với những thứ nằm ngoài dự tưởng.
Quy ra Gia kim tôi được gần hai trăm sau khi trừ đi một số lệ phí. Cô nhân viên
nói, ông bị xui bởi gặp lúc tiền Mỹ đang xuống chứ bình thường hẳn đã được
khoảng 220. Chúc mừng mùa Giáng Sinh đầy an lành. Chuyện nhỏ. Tôi nói thầm.
Tôi
cầm tiền đi đốt hết vào các món ăn chơi. Mua bột cà phê, mua thuốc lá, mua chai
rượu ở hàng quán Tây, ghé qua chợ Tầu mua đồ nhắm đặc sản heo sữa quay có chú
thích tuyệt đối không ngâm tẩm hoá chất độc hại. Tối về nhà soạn ra hai cái ly
hai cái chén bốn chiếc đũa để ngồi đối mặt với khoảng trống: Tôi hỏi thật anh
này, có thằng Khổng Minh nào đã chọc anh tức khí đến nỗi phải tê liệt nửa
người. May mà trời bù sự thua thiệt khi anh có được một nửa rất chu đáo, chị đã
thanh toán những vướng mắc giữa chúng ta. Tuy anh còn sống nhưng tôi mạo muội
rót chén rượu này để nhớ một cuối năm nào chúng ta cùng lai rai ba sợi. Trăm
phần trăm nổi không? Tôi uống cạn đây, tôi sống đây mà cũng xem như thác rồi,
anh ơi!
Tại
sao lại lai rai ba sợi mà không bốn năm sáu bảy tám chín? Bởi đời người ngắn
quá, chỉ ba sợi thôi đôi khi cũng chẳng uống xong, phải không anh? Nhiều, sức
người có hạn. Chỉ một truyện ngắn, bây giờ chúng sinh hổng có thì giờ để đọc,
để hiểu thấu. Cái điệu này tôi cũng về quét lá sân trước đuổi gà vườn sau!
Hồ
Đình Nghiêm
dec,
18, 2016