Thursday, December 8, 2016

2641. HỒ ĐÌNH NGHIÊM Truyện ngắn MƯA, GIỌT TRĂM NĂM


St. Laurent River (Canada) – Source: fromafriend7491.com



Dưới bài viết của em hiển thị sáu bình luận, ba khen ba chê, ba chấp nhận ba không thuận lòng. Sao anh không gióng tiếng? Nếu có, bình luận của anh? Em buôn chuyến đầu và em may phước huề vốn. Vậy là bình tài, cứ phóng theo lao biết đâu thắng đậm. Nếu vẫn ba chê ba khen như đã, anh nguyện nhập cuộc làm thay đổi cán cân. Ca ngợi ai xa lạ thì thầm thà thầm thụt đưa tay ra sờ vào ót, nhưng tán dương em chuyện ấy nào khó gì.

Em dự tính viết cái chi ở bận tới? Ôi, gieo cho anh nỗi bất ngờ chẳng phải là điều thậm sướng sao. Hãy nán chờ như anh từng mỏi mòn ngoài cõi viết. Hợp bụng là một chuyện mà đi tới tâm đầu ý hiệp lại phải bàn luận lung tung. Bây giờ em siêng bạch hoá nhưng giấc mơ trên màn hình, sao một cuộc tình chẳng thấy em gõ luôn tay trên bàn phím. Em giú trái cây xanh vào nơi khuất tất, lỡ khuấy quên cái chín rục kia không khéo phải dụt đi. Sống sít chát ngầm chẳng xơi được mà rụng cùi thúi cuống hẳn phí một lần dấu thu.

Hôm nay mưa nhưng em cuồng chân chi lạ. Lá vàng rụng em ưa đi dưới lòng đường. Anh thích uống cà phê không, nếu muốn đội mưa ra bờ thành cũ. Quán gì em quên tên, nằm sát sông Laurent luôn cau có, ở trên bờ trồng cột điện mãi toả một vũng vàng. Gạch đá ngỗn ngang người ta ưa bày biện, nhưng bước qua cửa sự ngăn nắp vén khéo vẫn chực chờ. Hình như đôi ta chưa hề ngồi với nhau trong đó. Ủa, vậy lần nọ em đi với ai cà, nhớ hổng ra! Nếu em nhiều tiền anh biết em ưa bày trò gì không? In thành tập toàn bộ những sáng tác của em. Việc ấy nào tốn kém gì, chỉ hai ba ngàn bạc chứ mấy. Giả dụ giàu có em kinh doanh mở quán cà phê thật đặc thù. Lấy màu nâu làm chủ, ton sur ton ngã dần về màu trắng ngà, vách tường viết đầy những câu của 108 nhà thơ Việt. Trang hoàng chỉ ngần ấy thôi, ấn tượng, bởi theo như Leonardo da Vinci nói “ Sự đơn giản là cái rất mực cầu kỳ”. Anh nhắm xem đụt mưa vào nơi ấy tay ôm cốc cà phê thơm dịu người anh có bần thần mê thiếp không? Kiếm đâu ra những một trăm linh tám vị? Chớ bỏ sót di chúc của Nguyễn Khuyến:

“Việc tống táng lăng nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một ít rượu hoa
Đề vào mấy chữ trên bia
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.

Sao cung đàn lạc điệu ra thế. Khẩu ngôn người xưa nằm trong kinh sách chứ ai nỡ lòng treo vào chốn giang hồ ông đi qua bà đi lại. Em nhắm chỉ tinh tuyển ròng thơ tình, thế mới đắt địa. Giáng Sinh tới anh sẽ quà cáp cho em xấp vé số Lotto Québec. Em sẽ dò sáu số biết đâu la toáng lên giấc mơ thành hiện thực một sớm chiều. Bà chủ tiệm, sao nghe cứ không đã cái lỗ tai. Nàng thi sĩ thì cầu chứng sự oai phong lẫm liệt hơn hẳn. Xưa nay người ta lỡ sắp hạng lao động đầu óc thì ăn đứt đứa tay chân loay hoay. Em mà làm cô hàng cà phê thì chán khối thằng phải bỏ quên cây đàn tại quán tình si mất. Hát hỏng gì buổi ấy! Nói chuyện với anh thường gây cho em một liên tưởng, em là con Lạc Long mà anh là con bà Âu Cơ, lạc hướng đi và địa hình khác biệt giữa núi biển đã tác động sâu vào nếp suy nghĩ của mỗi người, cổ nhân gọi là đầu Ngô mình Sở, chả đúng băng tần phát sóng giao thoa.

Ngày tháng này gió luôn đi ngang để than van trên hàng cây bị vặt gần trụi lá. Lá không than van, chấp nhận rơi trong chao đảo đến buồn lòng. Có người không ưa nói tới số tuổi mình mang, chỉ cạn lòng bảo tôi đã trải qua ngần ấy mùa lá rụng. Rồi một mùa thu nào sừng sững hiện về, gió của nó cuốn người ấy rụng đi xa. Người ấy có kịp nói đôi câu giã từ cõi thế: Việc tống táng diễn trong hai bữa, đưa thây ta vào lửa nung thân, rãi tro cốt vào nơi thuận tiện, cười cho ta một trận hả hê.

Gió làm gãy cọng chiếc dù em che. Tiếng em cằn nhằn nghe hư thực. Làm thơ trong hoàn cảnh nào xét thấy thôi thúc? Êm ả hay bực mình với những bất ưng tình cờ? Anh ưa phỏng vấn lôi thôi thế? Một bài đi dưới mưa có anh che dù e bất khả? Vai anh ướt cho tóc em khô, chẳng hạn? Dạng như thế em có bỏ trên facebook rồi, hình ảnh nghèo nàn quá anh chẳng ngộ ra? Trên hành tinh này mỗi sát na có cả triệu đôi nam nữ che dù đi dưới mưa, cái khó là làm sao người ta nhìn nhận ra anh trong đám đông ấy. Một bài thơ hay phải chăng là nơi hội tụ những ánh mắt, anh đi trong mưa mà dường như anh không ướt, điều huyền nhiệm nào đã vực anh lên, lôi anh ra sự chộn rộn của đám đông, khô thân để xem thường thời tiết. Anh mong mỏi có ngày em được như vậy, hãy ném cây dù vô dụng kia và trong nhất thời hãy chịu khó đi sát vào người anh, cho anh quàng vai em đi dưới vũ lượng mỗi lúc thêm ràn rụa nặng hạt. Hãy ôm nhau. Albert Camus nói: “Đừng chờ đợi sự phán xét cuối cùng. Nó xẩy ra hàng ngày”.

Sau cơn mưa trời lại sáng, người ta ưa nói thế, như đó là định luật tự nhiên của đất trời, như ký gửi một hy vọng. Kẻ thất vọng như anh thì đổi lời: Sau cơn mưa trời lại tối. Mưa buổi chiều, khi ngưng rơi thì trời chẳng quang mây chẳng tạnh được. Trời tối hù vì đêm đang tới, muốn sáng người ta phải phát minh ra bóng đèn điện và như thế, sau cơn mưa anh lầm lũi đi dưới hai hàng đèn vàng ệch. Sự phát quang của nó chẳng sánh được với màu lá rơi ngập đường, lầy lội. Anh vừa từ hội trường ra về, bỏ ngang phần phụ diễn văn nghệ hát hò ngâm vịnh, chỗ người ta tổ chức buổi ra mắt sách thi tập đầu tiên của “nàng”. Anh ngồi thu người trong lòng một chiếc ghế tự dưng quá đỗi lớn so với cơ thể anh. Anh đã cố gắng, cố gắng viết cho xong một cái tựa. Sự cố gắng không vượt qua lằn mức cuối, “nàng” sớm mang thơ đi in và dĩ nhiên lẳng lặng từ chối sự hợp tác của anh. “Nàng” nói tới hai chữ xin lỗi và anh linh cảm xấp vé số dự trù mua tặng trong dịp Chúa giáng sinh sẽ chẳng còn cơ hội trao tay “nàng”.

Chiếc áo dài tím có vẽ những bông hoa li ti nở rung động trên ngực làm “nàng” khác lạ, không như “em” của hôm qua. Khi bước ra ánh sáng, hoa nở bung và điều đó tôn tạo một vẻ đẹp xa cách. “Nàng” bị vây bọc bởi lắm kẻ yêu thơ và anh, vị trí thuận lợi nhất là thu mình trong lòng ghế lưng chừng giữa hội trường. Tuy gần mà xa. “Nàng" có tặng anh tập thơ dày đúng trăm trang, nếu in thêm cái tựa anh viết, không khéo làm lệch vai, làm mỏi tay ai đó cầm lên thêm nặng nhọc. Một trăm, thế mà hay. “Nàng” từng nói với anh về  một trăm cái trứng huyền thoại thuộc dạng khoa học giả tưởng. “Nàng” nói đại khái tụi mình là con cùng cha cùng mẹ nhưng phạm tới lời nguyền hiểm hóc nên đành phải quay lưng gạt lệ thua buồn số phận, ăn ở với nhau đầu bạc răng long có mà chạm tới luân thường đạo lý đẻ con không có lỗ đít các thứ linh tinh, lê thê và chì chiết hậu sanh khả ố.

“Nàng” viết ở trang đầu: “Tặng anh, để nhớ…” Chữ nhà thơ vẫn thế, đẹp không đẹp xấu không xấu nhưng bay bướm, kiểu tạo dáng. Anh thưa thốt, lí nhí: Chúc mừng. Rồi vặn giây thiều nghe cót két: Chiếc áo đẹp quá, tiếc là màu sắc nó buồn thâm trầm. “Nàng” có lối ứng xử nhạy bén: Anh tính trả thù à? Anh xuống giọng: Nếu trả thù ai dại đi trong mưa gió lặn lội tới chốn đây, làm đứa tiểu nhân ắt hẳn nó đang trùm chăn say ngủ hoặc gọi cốc cà phê đen ngồi rung đùi trong cái quán hôm nào hai đứa cụng đầu. Tiểu nhân có làm được thơ? Giọng thơ say lã một căm giận? Anh ngậm miệng đúng lúc khi sánh vai người mặc áo màu thâm trầm là gã đàn ông đạo mạo cứng thây trong bộ đồ lớn cắt may vụng, không vừa kích. Ông ta ngó anh như ngó cánh hoa tàn rơi trên khăn trải bàn, có nghiã là sẵn lòng nhặt nó ném đi sau khi thoả dạ săm soi. Và anh quay lưng cố giữ sự an nhiên có ở một đoá sen. Không mấy khó, anh biết người đàn ông đó đã bỏ tiền ra in thi phẩm nọ, lo từ a tới z để hoàn thành buổi ra mắt giới thiệu đứa con tinh thần của “nàng”. Không mấy khó để anh biết tên ông ta, in ở trang 17 dưới tựa bài thơ “Một cọng một bằng ba”. Nguyễn văn Không Trỗi còn nằm rải rác ở đôi ba trang khác. Ân nhân. Người xúi giục tôi làm thơ. Người cho tôi thi hứng. Người đồng minh không hề tháo chạy đang đi bên tôi. Người quyết tâm can ngăn không cho tôi nhọc thân làm bà chủ hàng cà phê…

Sau cơn mưa trời lại tối. Vào nhà anh mở sáng tất cả những bóng đèn, bật lò nấu nước trụng lai rai gói mì hiệu con tôm ăn qua loa theo di huấn của tiền nhân quân tử: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Lục soạn trí nhớ xem, có vị chính nhân quân tử nào ngôn: Nhưng mà sống để làm gì nhỉ? Chỉ nghe thi nhân Mai Thảo bảo:

“Sách một dãy nằm trơ trên giá
Cạnh người thân thế cũng trơ trơ
Sách, người hai cõi cùng hư hoại
Nơi một ngàn chương thiếu một tờ”.

Tờ giấy rời ấy đã bay, nhẹ tợ lông hồng mang vẻ dưng dưng của kẻ bạc lòng với thơ văn. Ngàn chương luôn thiếu bởi cơm áo nặng tợ ngàn cân làm mê muội cuộc sinh tồn nhìn ngó đành hanh một hơn thua vật chất. Nghèo một tâm hồn, tiếng thở dài mãi bị bụi bám trên kệ sách chẳng còn ai lạc hồn đâm trắc ẩn. Không thiết thực khi thắp đuốc cố tìm cho ra một kẻ tâm giao, thứ bằng hữu đúng nghĩa nguyện chia sớt đớn đau với lạc thú đề huề? Đi dưới mưa, chẳng còn ai sánh đôi che chung ô dưới gió chướng làm vướng chân.

Trời lạnh, bật sưởi vẫn còn run, nghe cảm hàn tự đáy lòng. Tắt đèn đi ngủ anh mang theo cái nồi lớn mà dạo trước “nàng” cao hứng đến xắn tay áo để ninh hầm món phở hoành tráng thơm điếc lỗ mũi. Anh đặt chiếc nồi vô dụng bên giường, xé từ tốn tập thơ dày đúng 100 trang, mồi lửa từ một tới chín chín. Lửa không reo, chỉ vặn mình cháy ngúm. Cạn lực rồi hồi sinh. Riu riu tàn tro rồi bừng sáng lửa ngọn. Em ơi, quả nhiên thơ em đã làm ấm giấc ngủ anh lẻ loi. Xin cho anh sớm đụng đầu cơn mộng, tụi mình hôn nhau tàn bạo ở quán cà phê không nhớ tên em từng hẹn hò. Sông Laurent trôi hững hờ bên ngoài và bóng điện vàng gục đầu đứng hổ ngươi chỉ sáng tỏ một vũng tròn thắp mù mờ công án: Làm thế nào để giết nguyên một tập thơ?

Hồ Đình Nghiêm