Houston
ngày 18 tháng 08 năm 2013
Anh
Phạm Cao Hoàng thân mến,
Với
cái tựa “Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt”, tập truyện và tùy bút của
anh như một lời mời gọi vô cùng hấp dẫn ngay khi nhà thơ Phan Xuân Sinh trao
tôi cuốn sách này vào sáng hôm nay do anh gởi tặng. Về tới nhà tôi liền mở ra
xem ngay mục lục và tôi tìm ngay truyện có cái tựa mà tác giả lấy làm tựa của
cuốn sách.
Theo
anh ghi, đây là một truyện thật và dường như trong tập truyện này anh có rất
nhiều truyện được anh ghi là“truyện thật của tác giả” như vậy, chẳng
hạn như truyện Mỗi Người Chia Nhau Một Chút Khổ, Đã Ba Năm Mình Không
Có Tết, Về Chốn Cũ…
Chính
vì “truyện thật của tác giả” nên truyện nào của anh cũng làm
cho người đọc rất cảm động vì anh viết về những hoàn cảnh của chính mình đã trải
qua và cam chịu những cảnh đời bất trắc của những dâu bể của dòng đời.
Đặc
biệt truyện “Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt” ngoài tình cảm gia
đình anh dành riêng cho hiền thê của anh lúc gặp dịp chẳng may phải chịu hai lần
giải phẩu vô cùng cảm động. Tình phu thê, tình mẫu tử và nói chung là tình gia
đình rất vô cùng quý báu; theo tôi những thương yêu mà anh và các cháu dành cho
chị đã góp phần làm cho chị vui lên và thắng được định mệnh đã có lúc làm chị
nhiều lúc muốn qụy xuống; và từ đó mới có ngày anh chị trở về Đà Lạt, nơi có
quán “Lục Huyền Cầm”, có cà phê Tùng để “anh uống môt ly cà phê đen, em
uống một ly đá chanh” để anh chị nhớ lại những ngày mới quen nhau hạnh
phúc biết bao!
Đọc
sách anh, tôi cũng nhớ Đà Lạt mà tôi tới đó cách nay hơn bốn mươi ba năm. Những
ngày tháng tôi còn rất trẻ và rất thích lang bạt nơi này nơi khác; và rồi Đà Lạt
là nơi tôi ghé lại vài ba lần, mà lần nào cũng như lần nào, nếu có ai hỏi hoặc
nhắc về Đà Lạt là tôi lại như anh chị là muốn “Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt” vậy!
Thưa
anh,
Cách
nay dường như vài năm, nhơn khi trò chuyện với nhà thơ Âu Thị Phục An (Sài
Gòn), có lần tôi đã hỏi chị ấy:
“Như
chị vừa nói: “vầng trăng tôi” bị đời ăn đi trong một đoạn đời rất lâu mà sau
đó, từ cuối năm 2007, tôi đã làm thơ lại”, có nghĩa là chị đã tìm lại được mình
giữa muôn trùng bất trắc của dòng đời ….
Nhưng,
như chị cho biết có một thời chị phải giã từ Rạch Giá theo gia đình đi học lớp
Đệ Tam trên Đà Lạt vào năm 1970 và vào những năm ấy tôi cũng có biết Đà Lạt của
chị mấy bận. Từ Sài Gòn theo xe đò ra tới ngã ba Dầu Giây (Long Khánh) rẽ về hướng
tay trái qua Định Quán, Phương Lâm, rồi vượt đèo Madagui, đèo Blao về Lâm Đồng,
tôi nhớ quá khu rừng Phương Bối trong “Nẻo Về Của Ý.” Bảo Lộc chập chùng những
đồi trà xanh một màu xanh mát rượi với làng Tân Lộc hồi đó mít trái đầy cây, ôi
thôi mít là mít .Mít nghệ, mít ướt, mít tố nữ làm thành cái nét riêng của Bảo Lộc
vào những ngày mưa rừng bất tận. Bỏ lại Bảo Lộc sau lưng, tôi đi tiếp đên vùng
đất Di Linh với những vạt rừng cà phê ngào ngạt hương thơm của mùa cà phê trổ
bông và rồi tôi lại bắt đầu đi vào lãnh thổ của làng Tùng Nghĩa thuộc quận Đức
Trọng của Đà Lạt với khí trời hơi mát lạnh của cao nguyên Lâm Viên lan dần vào
áo mỏng khách bộ hành. Đức Trọng với thác Liên Khương, thác Pongour, thác
Gougah cùng với những đồn điền cà phê, cam, thơm, khóm và đặc biệt về cây rừng,
về lâm sản là một trong ba quận trù phú nhứt của tỉnh Tuyên Đức gồm Lạc Dương,
Đơn Dương và Đức Trọng. Qua khỏi quận lỵ miền cao nguyên này, lần theo quốc lộ
20, lần đầu tôi có cảm tưởng núi rừng bao la quá làm con người chỉ còn là những
hạt cát li ti khi mắt nhìn xa xa phía trời cao kia núi là núi ngập đầy rừng lá
thông xanh làm thành cái dáng vẻ trầm mặc biết dường nào!
Tôi
lên Đà Lạt những năm tháng xa xưa ấy cách nay hơn bốn mươi năm mà sao vẫn nghe
như cứ mỗi bận nhớ về Đà Lạt là tôi nhớ tới quận lỵ nghèo Lạc Dương nằm về phía
phi trường Cam Ly chạy dài theo chân núi hơn là nhớ những vườn bông hồng đầy
hoa thơm và gai nhọn; tôi nhớ về Đơn Dương với con dốc khúc khủy về hướng Đà Lạt
nhin xuống thung lũng xa xa duới kia bóng dáng người tiều phu bé nhỏ giữa rừng
già; tôi nhớ Đức Trọng với thác nước Liên Khương hơi cạn và dòng thác như con
suối mùa hè, khác xa với những dòng thác khác cũng của Đức Trọng như thác
Gougah, thác Pongour cứ như giận dỗi ai nước cứ đổ ầm ầm bất tận… Nhớ về Đà Lạt
của chị tôi không nhớ cà phê Tùng, tôi không nhớ Sân Cù, tôi không nhớ hồ Xuân
Hương, tôi không nhớ những cặp tình nhân dìu nhau trên lối cỏ; tôi không nhớ những
chợ hoa với những cô gái mà đôi má lúc nào cũng ửng hồng, mà tôi nhớ những người
vác gùi đi vào rừng từ sáng sớm, mà tôi nhớ những đám mây xanh cùng lớp sương
mù như lúc nào cũng treo lưng chừng trên đỉnh núi Lâm Viên cao chất ngất trên
trời cao, đôi lúc làm mắt mình mờ đi không còn thấy đâu là rừng thông, đâu là
bông hoa, đâu là những gương mặt các cô gái Đà Lạt đẹp lạ kỳ ….
Và
ở đấy dường như tiết trời rất hợp với nước da con gái hơn con trai; chị có thấy
thế không?Và những năm tháng chị sống ở Đà Lạt chị có làm bài thơ nào ghi lại
những ngày này không?Hy vọng chị chia sẻ vài vần thơ về một miền cao với biết
bao mộng mị, trữ tình ấy, thưa chị.”
Và
được chị Âu thị Phục An trả lời:
“Ô,
thưa ông, không biết có sự tương cảm nào giữa ông và tôi không mà bỗng dưng ông
lại “trao tặng” tôi một ký ức quá đẹp và rõ nét về xứ sương mù Đà Lạt mà ông gọi
là “Đà Lạt của chị” như thế nầy? Thiệt sự những dòng hồi tưởng tuyệt vời của
ông làm cho tôi quá sức nao lòng và nhớ về Đà Lạt của những tháng ngày mộng mơ ấy
quá.Những gì ông kể cũng chính là những gì tôi cũng đã từng thụ hưởng trước một
Đà Lạt vô cùng xinh đẹp. Niên khóa 1971 – 1972 tôi vào học trường nữ trung học
Bùi Thị Xuân, và với trái tim lãng mạn, tôi không phải đứng ngắm Đà Lạt với đồi
núi cao vời, với sương mù sớm mai, với trăng đêm huyền bí, với thông xanh rì
rào, với những giọt café Tùng tuyệt ngon, hay với những chiếc dù đủ màu xinh xắn,
hay có lúc ngất ngư cùng anh chị Lê Uyên Phương trong ca từ của “ theo em xuống
phố trưa nay, đang còn ngất ngất cơn say…,” mà thiệt tình tôi đã như tan biến
vào những đóa hoa hồng đỏ au trên đôi gò má của những cô gái Đà Lạt nhu mì đáng
yêu.
Thưa
ông, đúng là tiết trời Đà Lạt lạ thiệt, tôi có vài cô bạn học đều có đôi má đỏ,
lòng bàn tay, gót chân đỏ au mỏng dờn, còn mấy anh con trai thì không được như
vậy đâu, da họ cao lắm là hơi hồng hồng một chút thôi ông ạ.
Nói
về thơ thì khi sống ở Đà Lạt tôi làm cũng nhiều, nhưng hồi đó báo đăng rồi thì
tôi cắt ra dán vào một cuốn sổ để kỷ niệm chứ không thuộc và nhớ nổi đến hôm
nay đâu.Sẵn đang cao hứng, tôi làm bài thơ mới toanh nầy gởi đến ông và độc giả,
có dở xin đừng cười, tôi rất cám ơn.
Em
thẹn gì mà má em cứ ửng hồng?
Vào đông chưa mà Đà Lạt cứ mùa đông
Sáng mù sương mặt trời không chịu thức
Ngủ chi mà ngủ li bì, có biết anh đợi không?
Nắm
tay em đi anh, tay em đang lạnh ghê
Nắm hai tay luôn, cho em quên hết đường về
Nè, cây dù đỏ che nghiêng bờ môi đỏ
Kìa, đồi nghiêng chao làm thao thức đám dã quỳ
Cỏ
óng mượt, cỏ đồi Cù xanh hết biết
Mỏi quá, duỗi bốn cái chưn ướt đẫm sương mai
Tập vở đâu rồi, tựa lưng vô gốc thông em lẩm nhẩm học bài
Còn anh nữa, năm nay mà thi rớt coi chừng đi lính đó
Nhớ,
sao mà nhớ một thời dấu yêu, một thời môi còn đỏ
Nhớ, sao mãi nhớ tay nào ấp mãi một bàn tay
Và rồi sương mù đời lắp che đôi mắt mỏi
Có còn khung trời nào cho những sợi tóc phai? “
Anh
Phạm Cao Hoàng,
Giờ
tình cờ đọc được những trang sách của anh và biết anh cùng chị lại “Về
Chốn Cũ” để cho“Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt” thành sự thật
càng làm cho tôi thêm một lần nữa được hồi tưởng lại một thành phố mà tôi có dịp
ghé lại ngày nào…
Tôi
có đọc thêm “Trạm Hành, ngày tháng sương mù” để nhớ Đơn Dương
với núi rừng trầm mặc nơi này và với “Về Chốn Cũ” tôi
cũng nhớ những ngày tôi đi ngang qua Tuy Hòa với quận Hiếu Xương nằm ngay khi
quốc lộ 1 nối dài phía bên kia chân Đèo Cả từ hướng quận Ninh Hòa, Vạn Giả về
hướng Phú Yên… Tôi đã có những đoạn đời lang bạt về những vùng quê anh ngoài ấy
cũng cách nay hơn bốn mươi ba năm … Lâu lắm rồi tôi chưa trở lại từ hồi những
năm 1973-1974 ấy khi tôi về lại Sài Gòn.
Anh
Phạm Cao Hoàng thân mến,
Tôi
đã lớn tuổi, đọc sách rất khó vì mình không còn mẫn cảm như hồi mình còn trẻ;
nhưng sách anh làm tôi mê và đọc liền mấy truyện thật của anh và vắn tắt mấy
hàng xin được chia sẻ cùng anh nhự vậy. Ở đó nó chan chứa tình bằng hữu, tình
văn nghệ, tình cố hương và đặc biệt tình gia đình với những ngày xưa thân ái
cũng như hôm nay, bây giờ, là những chất liệu làm cho đời sống này có ý nghĩa lắm
!
Xin
cảm ơn anh và mến chúc anh chị luôn dồi dào sức khỏe, cùng gia đình các cháu an
vui, hạnh phúc.
Thân
mến,
Lương Thư Trung