Khuất Đẩu
Những đứa trẻ tháng tư
Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai
nhầm thế kỷ!. Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế
chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và
cuộc nội chiến lê thê suốt hai mươi năm dài.
Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt
vọng. Vì còn kêu được kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra
trong những thế kỷ yên bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh
ra làm người vẫn hơn là không được sinh ra.
Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư,
bảy lăm, sau chúng tôi một thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi: sinh chúng tôi ra
làm gì?
Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở
ra hơi mà vẫn phải bết bát chạy.
Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu
Tràng Tiền lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con.
Sau cùng đến giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống
bến Bạch Đằng, hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn
Nhất. Một cuộc chạy Marathon dài nhất trong lịch sử.
Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ
với sự giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.
Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt
trong quần mà mẹ không hay.
Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang
ngồi tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ
không cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.
Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con
bị người ta đạp cho nát bét.
Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang
ném những xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ
không ném những người đàn bà chửa)
Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị
đạn dưới đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức
giữ cho máy bay khỏi rơi.
Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm,
khi tông tông Dương Văn Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều kiện”.
Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang
chiến đấu mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân
phục lẫn lộn giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1
Người ta đi
biển có đôi
Còn tôi đi
biển mồ côi một mình.
Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm
gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con
bú. Tuy chỉ uống nước lã cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu
hiếm hoi màu đỏ khi chảy qua miệng con vẫn
thành màu trắng thơm tho.
Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi
xác chết thối rữa, mùi khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong
tiếng đại bác ì ầm, tiếng A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.
Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ
hai mươi lăm, mẹ ngơ ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa
xanh nửa đỏ.
Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang
trang. Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố,
xóm làng của mình. Ngay cả con phố, căn
nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.
Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội
xuống ruộng, mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày
thay trâu. Mẹ làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón
lá chỉ làm cho nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.
Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc,
gọi là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy
còn nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm
ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét
rừng, bụng ỏng da vàng khè.
Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ
vay mượn chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý
thị trường rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi,
nói ra thật xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo
bè bạn đi đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.
Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị
bắt đi cải tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái
gọi là tình chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp
xe thồ, bán cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.
Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm
trước mặt con.
Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn
liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.
Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi
tuổi, cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc. Còn bi đát tội nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng
không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai để hướng tới, chỉ có cái
hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số không chẳng biết để làm
gì.
Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn,
tuy không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng
chỉ đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng
năm sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ
phía bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ
cho những ông chủ kém may mắn nói trên.
Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi: Sinh ra
trong chết chóc, lớn lên trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh
chúng tôi ra làm gì?!
Khuất Đẩu
17.4.2015