Ảnh PCH - Chantilly (VA) - July 3, 2014 |
Thư của chị tôi từ quê nhà gởi sang, ''Quê mình mùa này đang là mùa dẫy mả, chị
đã nhờ các anh chín Ngân, mười Kiều, ba Tạo giúp dẫy mả cho ông bà cha mẹ mình
rồi, trông cũng khang trang sạch sẽ lắm. Nhưng nhìn mả cha mẹ mình còn là mả đất,
chị buồn ghê! Em cố gắng làm ăn để dành tiền gởi về cho chị xây mả cho cha mẹ
mình, nghe em.''. Đọc thư, tôi thật bùi ngùi, xúc động. Ngày này, quê mình là
mùa dẫy mả. Đã bao lâu rồi tôi không trở về quê cũ trong ngày lễ gia đình này.
Hình như cũng trên hai mươi mấy năm, 27 tuổi vào trại tập trung, 34 tuổi ra trại
về sống lây lất ở Sài Gòn cho đến ngày đi Mỹ. Quê hương và tuổi ấu thơ tôi ở đó
như một dải lụa hồng êm mát, bây giờ đã xa ngút mắt. Quê hương Quán Rường, một
Tam Kỳ bé nhỏ của tôi.
Tự dưng, tôi nhớ Quán Rường quá chừng. Cái tên chợ không biết ai đặt mà ở đất
Quảng Nam ta có nhiều tên như thế. Như câu ca dao ''Ai đi chợ Quán, chợ Cầu.
Mua cau Phú Mỹ, mua trầu Hội An.'' Chợ Quán Rường, chợ Quán Gò, chợ Được,
chợ Trạm....
Mùa dẫy mả, rồi đến lập đông, rồi đến Tết. Bây giờ bên đó chắc mưa dầm lắm. Tôi
nhớ quá những ngày còn đi học, đạp xe đạp từ Quán Rường xuống ngã ba Chiên Đàn
rồi theo quốc lộ 1 vào trường Trần Cao Vân. Mùa này, những người dân từ các
vùng quê gồng gánh nào khoai lang, dây lang, rau cải, đi từ sáng sớm để vào Tam
Kỳ hay ra Hà Lam bán lấy tiền tiêu Tết. Họ đi từng hàng dài từ sáng sớm tinh
sương, nói chuyện cười đùa vui vẻ như không biết nỗi khổ đau là gì. Cuộc sống của
người dân quê vốn bình dị và chất phác.
Chợ Quán Rường, tôi nghe mẹ tôi kể lại có một bà già nào đó đến đây lập một cái
quán bán nước chè cho khách qua đường, cái quán thô sơ bằng gỗ, lợp tranh nên gọi
là quán rường (nhà rường là nhà lợp tranh nhưng bằng gổ tốt, nhà rội cũng nhà lợp
tranh nhưng bằng gổ tạp, gổ xấu). Cái tên đó dần dà theo năm tháng trở thành
cái tên chung của một cái chợ, bây giờ to lớn hơn, đẹp đẽ hơn. Chợ nằm ngay
trên đường tỉnh lộ từ ngã ba Chiên Đàn lên Cẩm Y, Tiên Phước. Ngôi chợ được cất
bằng tôn, có chia từng ô cho mỗi mặt hàng, chung quanh có một dãy cây bàng cành
lá xum xuê, trải đầy bóng mát. Mẹ tôi đã từng tần tảo ở đó, đã từng lê lết ở
đó để bán từng rê thuốc lá, để tự nuôi sống mình và nuôi hai đứa con trai đang ở
trại tập trung cải tạo. Hai đứa con trai là sĩ quan QLVNCH, ngày còn tại chức
cũng chẳng giúp được gì mẹ bao nhiêu, lúc nào mẹ cũng lo cho hai đứa con trai
đi lính không biết bây giờ ở đâu. Ngày chạy tị nạn cộng sản, cha mẹ tản cư xuống
thị xã Tam Kỳ, mẹ cũng lê la ngoài chợ bán hàng. Mỗi lần tôi nghỉ dưỡng quân về
thăm mẹ, tôi phải chạy ra ngoài chợ khu Nam kêu mẹ về. Bảy năm ở trại tập
trung, mẹ cơm đùm, cơm gói thăm nuôi. Bây giờ thì chợ quán Rường còn đó mà mẹ
đã mất rồi. Tôi thì bơ vơ ở Mỹ, ngày dẫy mả cha mẹ tôi không được vác cuốc đi dẫy
mả cùng bà con chòm xóm. Bây giờ giá mà còn mẹ thì hạnh phúc cho tôi biết bao
nhiêu.
Ngày tôi sắp đi Mỹ, bạn bè cũ ở trường Trần
Cao Vân có mở tiệc tiễn đưa. Có hội đồng hương Tam An, quê tôi, tham dự. Hôm đó
thật vui mà cũng thật bùi ngùi. Anh Nguyễn Ngọc Diện, trưởng ban liên lạc cựu học
sinh trung học Trần Cao Vân phát biểu, chúc gia đình bạn đi bình an, mau an cư
lạc nghiệp, luôn luôn nhớ về trường xưa và bạn bè. Anh Năm Tre, trưởng ban liên
lạc Hội Đồng Hương Tam An, Tam Đàn tặng gia đình tôi một bức tranh sơn mài. Anh
tư Thắng cũng vậy. Trong cái bắt tay của bạn bè ai cũng chúc, cố gắng nghe mầy,
qua bên đó dựng lại đời nghe, luôn nhớ anh em ở quê nhà, nhớ bà con chòm xóm.
Tôi không hình dung được cái xứ Mỹ như thế nào nhưng trong đầu óc tôi suy nghĩ,
chắc là sung sướng hơn, tự do và hạnh phúc hơn. Tôi đã mạnh dạn nói với bạn bè,
thân hữu, tôi sẽ không bao giờ quên.
Thế mà qua đây đã mấy năm tôi vẫn chưa làm
gì để bù đắp lại những tấm lòng ấy. Tôi đáp máy bay xuống phi trường Los trong
một ngày tháng 3 lạnh lẽo, phi trường Los rộng bao la và tiện nghi quá mức. Sau
khi làm xong thủ tục giấy tờ, tôi lên xe buýt để về phi trường Orange County.
Người sponsor và những bà con bạn bè đón tôi ngoài phòng đợi. Lên xe về nhà người
sponsor mà lòng nặng trĩu những suy tư. Cuộc đời bắt đầu từ đây với một nơi chốn
không phải là quê hương mình. Về căn nhà người sponsor với ngôi nhà trần thấp,
lót thảm, tôi không tưởng tượng được nhà bên Mỹ lại xây cất thế nầy, vẫn cứ
nghĩ đến những căn nhà cao tầng, những cầu thang máy, những phố xá đầy nghịt cả
người. Những tên gọi Little Sài Gòn, Bolsa, Westminster nghe sao lạ hoắc. Rồi
những tiệc tùng của bạn bè, những lời thăm hỏi, những đón đưa. Trước tiên là
chuyện giấy tờ, social-security, medical, tiền trợ cấp, rồi đi khám sức khoẻ,
khám răng, làm kính, rồi chuyện đi học Anh Văn để chuẩn bị xin việc làm. Những
đón đưa của bà con và bạn bè cũng thưa thớt dần vì ai cũng bận rộn tứ bề. Cuộc
sống ở Mỹ, nói theo một một câu Việt Nam là ''chạy như vắt chân lên cổ''
với thời gian, những giúp đở ban đầu cũng dần dần thưa thớt. Bây giờ phải
tự lực cánh sinh đây, phải mua một chiếc xe và phải có bằng lái. Những khó khăn
dần dần rồi cũng qua đi, chỉ còn là công ăn việc làm chứ tiền trợ cấp một tháng
chỉ 250 $ làm sao mà tiêu xài sinh hoạt cho đủ.
Một
người bạn trong lớp học ESL mách với tôi: ''Ở quán Sông Hương cần người phụ việc,
anh muốn làm không?'' Tôi gật.''Chỉ mình đi''. Ngồi trên xe người bạn dẫn đi
xin việc mà tôi hạnh phúc. Thế là đã có chuyện làm. Đến quán gặp cô chủ, cô chủ
nói, ''Ở đây cần người bưng đồ ăn lên cho khách, và làm mọi việc linh
tinh, chỉ làm thứ bảy và chủ nhật, mỗi ngày từ 7 giờ sáng đến 9 giờ đêm, lương
30$ với 5$ tiền típ." Tôi gật, được. Vì tôi nghĩ, Kệ, làm đại, ban đầu mà,
ở VN làm đầu tắt mặt tối mà một ngày chỉ được mấy đồng đô la tính theo tiền Mỹ.
Ngày thứ nhất đi làm, tôi thức dậy sớm, lên chiếc xe đạp mượn của một người bạn,
tôi hăm hở như thuở còn thanh niên, ngày mới ra trường Đà Lạt, ngày được đeo
trên vai chiếc hoa mai vàng chói lọi đi trình diện đơn vị mới, nay thì trình diện
cô chủ quán tuổi trạc tuổi con tôi. Vì là ngày thứ bảy nên quán rất đông khách,
tôi nào rửa chén bát, lau bàn, bưng thức ăn, bưng rau, chanh ớt, đúng là một
tay bồi bàn chính hiệu. Bây giờ tôi mới hiểu nỗi xót xa của những con người đã
có một thời kỳ vang bóng mà phải làm những công việc như thế này. Nhưng với tôi
thì không, trong gần bảy năm tù tôi đã phải khiêng biết bao nhiêu thùng phân
người còn tươi rói đi bón rau xanh, cuốc biết bao nhiêu thước đất để trồng cao
su, trồng lúa ở vùng Long Khánh, Long Giao mà có được trả đồng xu teng nào đâu,
lại còn phải ăn toàn khoai mì lát đầy độc tố. Rồi những
ngày được trở về với gia đình sống lây lất ở Sài Gòn, tôi đã làm biết bao nhiêu
nghề khổ nhọc, đi chẻ củi thuê, chạy xích lô, vá xe đạp lề đường, bán bánh
tiêu, bánh bò dạo... Bây giờ được làm như thế nầy còn sướng hơn gấp trăm lần đi
chứ. Ngày đầu tiên được lãnh 35$ đô la, tôi nghe sung sướng lạ lùng. Tôi ngữi đồng
đô la như có mùi thơm toát ra ngào ngạt, tôi muốn hôn vào nó quá. Đây là công sức,
là sự trả giá quá đắt của 7 năm tù, của những ước mơ đâm chồi từ ngày nộp giấy
tờ xin xuất cảnh. Sự ra đi là một cuộc vượt thoát từ một độc tài sang một nơi
là bến bờ tự do, được trả giá bằng sự chọn lựa tự nguyện, của một ước mơ hạnh
phúc. Mùi đô la thơm lừng trong trí tưởng tôi, nguyên vẹn, bừng bốc trong lòng
tôi nổi khát khao một tương lai tươi sáng.
Nhưng công việc làm bồi bàn cũng chẳng được bao lâu, đến tuần thứ... cô chủ
nói, ''độ rày quán bán ế quá, tuần sau chú nghỉ, khi nào cần sẽ gọi chú.'' Tôi
buồn bã trở về. Một người cùng phụ việc nói với tôi, ''Chú làm chậm quá, cổ
không mướn, cổ nói mướn Mễ còn hơn.'' Tôi hiểu chuyện đó cũng bình thường, hồi ở
Việt Nam tôi đã đọc một số báo có bài viết nói về những người lớn tuổi, thường
gặp trở ngại về công việc làm ở Mỹ, nhưng tôi còn trẻ mà, chưa quá năm mươi,
làm sao mà già được. Sau đó tôi còn làm một vài công việc khác nữa, như đi cắt
chỉ ở các shop may VN, ủi đồ, làm final, cũng tạm sống qua ngày, nhưng với giá
thuê nhà đắt đỏ ở Cali làm sao dư dả nổi.
Tôi nhớ lời hứa với chị tôi trước ngày lên máy bay, ''Điều em quan tâm đầu tiên
khi đến Mỹ là khi làm có một ít tiền, em sẽ gởi về cho chị xây mả cho cha mẹ
ông bà.'' Điều ước vọng đó bây giờ đã quá lâu. Tôi đã bỏ Cali đi đến tiểu bang
Iowa làm công nhân trong hãng thịt heo. Thật sự thì tôi muốn kiếm tiền để làm
tròn ước nguyện. Chiếc xe buýt chở tôi qua những chặng đường, Las Vegas,
Colorado, Denver, Sioux City, Des Moines, rồi Waterloo. Tôi đã nhìn thấy những phồn
vinh, những vĩ đại của nước Mỹ, những highway dài tít tắp, những núi đá hùng vĩ mà
tôi chưa từng thấy bao giờ. Rồi tôi được gặp những người Mỹ hiền lành, tốt bụng
và tôi an tâm sống.
Tôi đã sống ở nơi đó qua những mùa đông dài, rét cóng. Tuyết rơi đày trên đường
đi và vùi dập thành phố trong ba bốn tháng. Mùa tuyết, mùa của lạnh lẻo tột cùng,
mùa của giá băng. Đường đi từ bãi đậu xe đến cửa ra vào hãng chưa đầy hai trăm
mét mà nghe rét cóng. Cái lạnh tột cùng ở đây làm tôi sợ hãi, những lá cây chuyển
từ đỏ sang vàng và rụng đầy đường đi. Trời lạnh cóng, buổi sáng thức dậy đi làm
phải mặc ba bốn lớp áo, ra mở cửa xe bị chặt cứng vì tuyết đóng. Nhưng những
ngày này sẽ qua đi và sang xuân cây lá sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cũng như ở VN, ở
quê tôi, mùa đông giá buốt sẽ qua đi và Tết sẽ đến. Chợ Quán Rường, chợ Hà Lam,
chợ Tam Kỳ sẽ đầy đặc người đi chợ Tết, từ sáng tinh sương vẫn lủ lượt bao người
gánh gồng tất tả ngược xuôi. Cuộc sống của dân ta ở quê mình suốt đời là vậy.
Ơi thương nhớ quá đi thôi.
Lần
trở về mới đây, trên căn nhà cũ, tôi với vợ chồng anh chị Phong - Tân, đứng trước
bàn thờ cha mẹ, đứng trước ngôi mộ mới xây, đi qua chợ Quán Rường, khu nhà ga,
đường rầy xe lửa. Tôi thấy lòng vẫn còn như những nhát dao đâm. Lòng không thảnh
thơi, không hạnh phúc. Cái nơi chốn ấy đã hóa loãng trong tôi. Đi thì nhớ nhưng
chắc là không ở lại được, không sống được. Tôi, như nhà thơ Tô Thuỳ Yên trong
bài thơ ''Ta Về''. Tôi xin chép ra đây một số đoạn "sao giống tôi
quá":
Ta về như lá rơi
về cội
Bếp lửa nhân quần
ấm tối nay,
Chút rượu hồng
đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc
biển dâu nầy.
.......................................................
Ta về như sợi tơ
trời trắng
Chấp chới trôi
buồn với nắng hanh.
Ai gọi ai đi
ngoài quảng vắng?
Phải, ôi vàng đá
nhắn quan san?
........................................................
Ta về khai giải
bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào
gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười
năm mộng dữ.
Một lần kể lại để
rồi thôi.
......................................................
Cây bưởi xưa còn
nhớ trắng hoa
Đêm chưa khuya lắm,
hởi trăng tà!
Tình xưa như tuổi
già không ngủ
Bước chạm khua từng
nỗi xót xa.
(Ta về, Tô Thùy
Yên )
Trần Yên Hòa
Nguồn: Bạn VănNghệ