Dựa vào truyền thuyết dân
gian về nguồn gốc sông Cửu Long và phong cảnh thiên nhiên ở vùng rừng núi Thất Sơn (An Giang), Nguyễn
Minh Nữu viết truyện CON TRAI CỦA THỦY THẦN. Truyện ca ngợi tình yêu, lòng
chung thủy, và đạo làm người. (PCH)
1
Ông Tư
Thời năm nay có lẽ đã trên 80. Ông
sinh ra và sống bám vào vùng đất này từ thời thơ ấu đến nay. Ngồi bên tách trà nhâm nhi nhìn mưa
gió tối trời tối đất của tháng chin trên vùng núi non hùng vĩ của Thất Sơn,
bỗng sinh lòng hoài cổ cảm khái kể lại như thế này.
Vào một
năm lâu lắm rồi, lúc đó vùng Thất Sơn
còn rất hoang tịch, dân cư thưa thớt, giao thông vẫn còn trông cậy vào xe ngựa
ở trên bờ, và thuyền ghe dưới bến, sâu
vào phía sau núi Ông Két, có một ông già sống đìu hiu một mình bên cạnh một mô
đất lớn. Ông Tám nhấn mạnh, “Mà ông già đó còn già hơn ông nội tao nữa
nghen bây” . Nhờ vào những nén hưong thắp mỗi buổi chiều tàn, người ta mới hiểu
đó là một ngôi mộ, nhưng là một ngôi mộ khá lớn so với kích thước bình thường.
Ông già đó sống ở đó từ hồi nào và bao lâu rồi thì ông nội tao cũng không biết
rõ. Người ta thường gọi ông là Thầy Tám Rắn, vì ông rất giỏi về
thuốc trị rắn. Dân địa phưong và
các vùng lân cận nếu ai bị rắn cắn, miễn là còn sống cho tới khi gặp thầy Tám
là coi như người đó sống. Cách chữa trị của ông cũng lạ kỳ, có
ngừoi bị rắn cắn hấp hối, khi gặp thầy Tám chữa trị xong, sống lại rồi kể
lại: khi khiêng bệnh nhân
tới, thầy Tám kêu để trên bộ ngựa giữa nhà rồi đuổi thân nhân ra ngoài
hết, sau đó, thầy Tám đưa tay ra vuốt ngay chỗ rắn cắn, từ trong vết thưong rỉ
ra một vệt nước đen đặc sánh chảy
ra tay thầy, người bệnh cảm thấy
nhẹ nhàng liền, chút xíu sau là các vết sưng xẹp xuống, và sinh
hoạt bình thường.
“Ông nội
tao hồi còn thanh niên bị rắn cắn, cũng đã được thầy Tám cứu, vậy mà khi tao lớn lên,
thành thanh niên mười bảy mười tám tuổi cũng còn thấy mặt thầy Tám …thì
tao cũng không biết ổng già cỡ nào”
"Lúc
đó lóng chừng khoảng giữa tháng 10, trời mưa hoài, mà lại giữa mùa nước lớn…,
một bữa vào buổi chiều, trời cũng đang chạng vạng tao vừa ngoài ruộng về , bỗng
thấy sấm chớp sao quá lớn, nhất là sét đánh gì đâu mà tứ tung , khắp trời như
sao xẹt…Tao hoảng hồn kiếm chỗ núp sao mà bất ngờ chạy tới ụ rơm kề ngay
ngoài vườn nhà thầy Tám, và tao hoảng hồn khi thấy sao nhà thầy Tám
đông người quá, mà người nào người nấy bận đồ như hình mấy ông Hộ Pháp trong
chùa, có hai người quay mặt ra ngoài nên tao thấy rõ họ chỉ là những chàng
thanh niên cỡ chừng hai chục tuổi, khuôn mặt sáng láng, họ đang nói chuyện bàn
bạc gì đó chung quanh thầy Tám. Còn thầy Tám thì nằm trên bộ ngựa…không
biết bệnh gì và còn sống hay không. Thiệt tình thì tao cũng muốn chạy vô
thăm hỏi, nhưng sợ sấm sét inh trời mà sao như nhiều tia chớp như phát ra từ
trong căn nhà đó nên chưa biết tính sao. Chợt
tiếng sấm thiệt lớn nổ như ngay trên đầu mình, tao té lăn bất tỉnh, tới
chừng tỉnh dậy cũng đã nửa đêm, dòm ra thì căn lều thầy Tám cũng
không còn, chỉ thấy trên đó là một ụ đất lớn như ngọn đồi, mà bây giờ tụi
bây thấy đó, hai ngọn đồi nằm song song bên núi ông Két".
2
Ngôi chùa
đìu hiu lắm, bốn bức tường rêu
phong cũ kỹ , chính điện chỉ là một cái kệ xây cao , trên đó , pho tượng Phật bằng gỗ mít lâu ngày đã xẫm đen
như hắc ín. Vị lão tăng khoác tấm áo nâu bạc màu, thân hình gầy ốm, chỉ
có tia mắt là sáng.
Khi nghe
khách kể lại những lời ông lão Tư Thời kể về sự tích hai ngọn đồi bên cạnh núi
ông Két, vị tăng từ tốn gật đầu
xác nhận, và nói ông Tư Thời kể lại đúng đó, đúng nhưng chưa đủ. Ông Tám
đó là long thần, nên nọc rắn nào khi móng rồng vuốt vào thì độc cách mấy cũng
phải ứa ra thôi. Ngôi chùa mà ông đang đứng đây là ngôi chùa xây dựng từ
trăm năm nay, ngoài chính điện thờ Phật, phía trái , chúng tôi vẫn có bàn thờ
Long Thần. Sự tích vị Long
Thần này chính là sự tích Ông Thầy Tám Rắn. Tổ sư khai sơn của ngôi cổ tự
này này tổ sư ba đời của tôi, đã ghi rất rõ nguồn gốc của hai ngọn đồi, của
Long thần đựoc thờ trong chùa, tôi xin kể lại ông nghe.
Thủy Thần
biển đông có 9 con trai, và ông Tám Rắn đó chính là người con trai thứ tám phụ trách thông
thưong cho cửa Ba Thắc. Nhiệm vụ của họ là mỗi ngày đi vào đất liền bằng chín
lối khác nhau. Mỗi khi đi vào, họ hóa thân thành chín luồng nước
lớn , những lớp vảy là những con sóng bạc, khi họ đi vào là nước thủy
triều dâng lên, vừa làm lòng sông sâu thêm, vừa làm bờ sông mịn láng, và
khi lên tới đầu nguồn, họ quay về biển đông, đó là khi ngừoi ta nhìn thấy nước
triều xuống. Hàng ngày, thủy triều lên xuống tạo cân bằng cho sinh thái
tự nhiên và là hoạt động của thiên nhiên chi phối và hỗ trợ con ngừời.
Những long thần này còn làm ra những cơn mưa tưới cho vùng đồng ruộng bát
ngát của đồng bằng miền nam. Khi cất lên cao để tạo mưa, rồng nhả từ trong
miệng ra viên trân châu là linh khí của mình, viên trân châu xoay tròn tạo ra
những tia sáng lấp lánh mà chúng ta thường gọi là sét, cùng lúc với tiếng reo vang
của long thần trở thành tiếng sấm. Công việc bình thường từ muôn đời tới
nay vẫn êm đềm trôi chảy cho tới khi ….
3
Bát Lang
thong thả vựơt dòng nước trôi đã nửa ngày. Tháng
này đang là mùa nứoc nổi, lênh láng khắp nơi là những đợt nước từ đầu nguồn mưa lớn chảy xuống, chưa
thể chảy ra biển nên tràn vào các rừng cây mọc thấp. Dòng sông bây giờ không
chỉ là một dòng nước chảy giữa hai bờ, mà rất nhiều nơi bát ngát mênh mông như
một biển giữa đồng bằng. Bát lang
lúc thì bơi giữa giòng, lúc thì nép hẳn thân mình vào núi đá. Phong cảnh xanh
tươi của núi rừng thấp thoáng xa xa là những cánh đồng lúa thơm bất
tận, vui vẻ trong lòng, chàng bay hẳn lên cao, nhả hạt trân châu
cho xoay giữa hai chân vờn múa tạo ra những cơn mưa ,đùa giỡn một lúc, chàng từ
từ ghé lại đỉnh núi Cấm, rùng mình biến thân thành một chàng trai, đứng trên vồ
đá dựng cảm khái nhìn xuống bình nguyên.
Xa xa
trong tầm nhìn của chàng là cánh đồng lúa xanh rì, thấp thoáng vài mái
nhà tranh , làn khói lam nhẹ bốc lên trong thời điểm chuẩn bị bữa ăn
chiều.
Bỗng Bát
lang nhìn thấy một bóng người giữa đồng, kín hở trong cái chòi lá chênh vênh.
Khuôn mặt thì không rõ, nhưng dáng diệu dịu dàng trong từng cử động nhẹ …bỗng
làm chàng xúc động.
Với phép
thần thông có sẵn, Bát lang lại biến mình thành một cánh chim, bay từ
đỉnh núi xuống ven cánh đồng, rồi hiện ra với vóc dáng một chàng thanh niên dân
dã, đi xăm xăm về phía chòi tranh.
-
Này cô gái, sao cô ở đây một mình? Cô không biết là trời gần tối rồi sao?
Cô
gái ngước mặt lên, khuôn mặt trắng hồng và đôi mắt to đen ngạc nhiên.
-
Ông là ai? Một mình là sao khi ruộng lúa này là ruộng lúa của quê hương
tôi, Chung quanh còn có xóm giềng làng nước, trên dưới còn có đất
trời, trái phải còn có thánh thần hai bên . Nếu hỏi tại sao chỉ có
một mình thì hãy hỏi về ông đó, ông là người lạ mặt với thổ ngơi
này, gần tối rồi sao lưu lạc đến đây.
Bát lang
đỏ mặt
-
Chỉ là ta lo cho nàng thân gái dặm trường nên muốn giúp nàng….muốn đưa
nàng về nhà thôi…
Cô gái
cười
-
Hãy coi lại mình đi chàng trai xứ lạ, Đây là đâu và chàng là ai? Ruộng
đồng xanh ngát này đâu phải là chỗ cho những người mặt trắng như công tử con nhà giàu,
đất bùn sình này đâu phải là nơi dành cho bộ quần áo trắng trơn như
chàng….
Bát lang
thấy máu chạy rần rật nơi mang tai, mặt nóng bừng như hơ trên bếp lửa và miệng
khô cứng như ngậm phải trái bồ hòn.
Chàng
lúng túng..
- Vậy ta
…..có thể làm gì giúp nàng hay không?
Cô gái
vẫn cười, lúng liếng đôi mắt bồ câu, cái lúm đồng tiền càng sâu hơn khi cô ta
cười trêu ghẹo:
-
Có chứ, chàng có thể làm cho cái nhìn của em thân thiết hơn bằng cách bôi chút
sình lên khuôn mặt để giống con trai vùng núi Cấm, có thể trộn mầu quần áo tinh
tươm kia với nứoc phù sa để đồng điệu với dân quê…
Cô gái
nói như đùa, và cười như người bạn thân thiết. Nhưng ngay lúc đó lạị tới giờ về
biển. Viên trân châu linh khí của loài rồng trong bụng chàng bắt đầu réo
gọi bằng những chuyển mình cuồn cuộn. Nếu là bình thường thì lúc này Bát
lang chỉ việc rùng mình một cái, trở lại hình dáng long quân và nhào xuống dòng
nước bơi về biển theo đợt nước ròng. Nhưng Bát lang không muốn vậy, chàng đưa
tay chặn bụng mình lại và tìm lời đối đáp , chuyện trò với cô gái mới
quen.
-
Nếu ta làm theo ý nàng thì …nàng bằng lòng để ta đưa nàng về nhà chứ
-
Chưa đâu, vì chàng đã biết em tên gì đâu…
-
Nàng tên gì…..
-
Chèng ơi…….hỏi tên ngừoi ta dễ dàng vậy sao, vậy chàng tên gì?
Bát lang
luống cuống hơn, ai cũng gọi chàng là Bát lang , vì chàng là con trai thứ
8 của Thủy thần, còn chàng tên gì chàng chưa bao giờ biết tới….
-
Ta …ta thứ Tám.
Viên trân
châu linh khí không để yên cho Bát lang chuyện trò nữa, nó nhồi lên nhồi xuống,
chạy ngang qua, ngang lại làm Bát lang cố gắng đưa tay ngăn chặn không kịp nữa.
Chàng
biết rõ, nếu không gồng sức chịu đựng, viên trân châu sẽ vọt ra cửa miệng là
chàng lập tức hóa thân thành rồng, nên càng cố gắng cắn răng lại và ôm bụng
chịu đựng. Mồ hôi toát ra đầm đìa khắp toàn thân và Bát lang ôm bụng lăn
lộn trên bờ ruộng. Cơn đau làm Bát lang mê mệt , Bát lang thiếp đi, trước khi
chìm hẳn vào cơn mê, chàng vẫn còn ý thức đựoc vòng tay trìu mến của cô gái
nâng người chàng lên và đôi mắt bồ câu long lanh lo lắng nhìn vào mắt
chàng.
Tối hôm
đó, dòng Cửu Long chảy ra cửa biển Ba Thắc đã không có nước ròng,
con thủy triều lên, nhưng chưa chịu ròng xuống, thì nước lại vào vòng chu
kỳ nước lớn nữa. Người ta gọi hiện tượng này là Bán Nguyệt Triều.
Bát lang
tỉnh lại nhìn quanh. Tiếng gọi nhẹ nhàng bên cạnh, anh Tám, anh Tám khỏe lại
chưa? Ăn chén cháo này nghe….
Họ quen
nhau như thế, Bát lang thành Anh Tám mộc mạc sống bên ngừoi vợ hiền là cô gái
nghèo mồ côi làm nghề gặt lúa mướn bên núi Cấm. Cô gái chỉ biết ngừoi chồng
khỏe mạnh của mình bị một cái bệnh kỳ lạ là mỗi ngày hai cơn đau bụng thấu
trời, nhưng sau đó lại bình thường sinh hoạt việc nhà chăm chỉ, chứ không
biết gì về một long quân ở cõi bất sinh bất diệt đang hạnh phúc bước vào
cõi người để chịu sinh lão bệnh tử . Họ sống trong yêu thương, quấn quýt bên
nhau cho đến một ngày cô gái già yếu đi , bệnh hoạn và từ trần. Bát lang chôn
cất nàng dưới chân núi Cấm và cam tâm chịu sống hiu quạnh một mình cho thưong
nhớ vô vàn người phối ngẫu.
Khi mang
thân xác con người, Bát lang cũng chịu sự chi phối của quy luật con
ngừoi, nghĩa là già đi, nghĩa là yếu đi, dòng nước ngày xưa chàng phụ trách mỗi
ngày ra vào từ cửa biển, nay lâu ngày không lưu thông, các gò cát phù sa từ
thượng nguồn đổ về nhô hẳn lên cao, và dòng nứoc hẹp dần.
Tháng mười năm đó, Bát lang già yếu lắm rồi,
chàng không còn đủ sức kiềm chế nổi viên trân châu linh khí rồng nữa, cho nên
một buổi trưa, khi ngoài trời mưa lớn, nghĩa là khi các anh em của chàng đang
vần vũ trên cao nhả châu làm mưa xuống, thì trong căn nhà tranh
giữa rừng, Bát lang nhả viên trân châu ra khỏi miệng, viên trân châu bay lên,
xoay tròn bốn phía, phát ra các tia sét màu hồng tươi, quyện cùng các tia
sét màu xanh lục ,màu vàng chanh, màu vàng cam….của các anh em khác. Thế
là tám anh em của Bát lang đã tìm ra đứa em thất lạc bấy lâu nay. Lập tức
họ hiện thân thành các hoàng tử tụ xuống lều tranh thăm người em thứ tám. Tám chàng trai trẻ đứng
chung quanh một ông già ốm yếu , co quắp trên bộ ngựa giữa lều.
Đại lang
giận dữ:
-
Em sao vậy Bát lang, bỏ nhiệm vụ thiên phong, bỏ cõi bất sinh bất diệt vì cái
gì vậy? có biết cha và các anh buồn nhớ ra sao không?
Nhị lang
thì cầm tay Bát lang khuyên nhủ:
-
Hãy theo anh về gặp cha ngay, cha cứu đựoc em mà
Cửu lang
thì như đứa con nít , quỳ xuống ôm thân hình Bát lang và khóc nức nở:
-
Em không chịu đựng nổi khi nhìn thấy anh xơ xác
như thế này đâu…..Bát lang hùng tráng của em ngày xưa đâu rồi.
Bát lang
lờ đờ nhìn các anh em, nứoc mắt ứa ra từ đôi mắt hóp sâu,da nhăn nhúm…
-
Em sắp tới giờ chia xa tất cả mọi người rồi, em nhớ các anh và các em
nhiều lắm, em có lỗi với cha, em có lỗi với chức thiên phong, em xin mọi
người tha thứ…
Tam lang
ngắt lời,
-
Vẫn còn kịp mà, em là giống rồng, em thoát bỏ kiếp người phù du này đi,
hãy về với cha và các anh em…
Bát
lang lắc đầu , em không về đâu...
-
Cái gì làm em mê muội như vậy, hai ba giọng nói cùng cất lên.
Đại
lang hằn học, sao em u mê tới vậy, Bát lang à, anh không hiểu nổi em rồi.
Chúng ta có thần thông, nếu em chỉ yêu nhan sắc nào đó , em đủ khả năng biến
bất kỳ một sinh vật nào thành một nhan sắc vượt trên mọi nhan sắc của thế
gian mà sao em tự hủy mình vì một con người đời sống phù du như vậy…
-
Nếu em không muốn tự làm , anh sẽ làm giúp cho em, Tứ lang chen vào
Bát lang
buồn bã lắc đầu, lắc đầu nhẹ nhưng cưong quyết.
Bất ngờ
một tiếng sấm khủng khiếp vang lên , cả căn lều như sáng rực lên vì lớp hào
quang vàng rực bao trùm cả một vùng.
Tám chàng
trai vội dạt qua hai bên và quỳ xuống, Bát lang từ trên bộ ngựa cũng cố gượng
dậy, nhưng ngay lúc đó một bàn tay đã ngăn lại và tiếng nói trầm hùng vang lên,
" Con trai yêu , con cứ nằm
đó đi….".
Tám chàng
trai đồng loạt, "Tham kiến
phụ hoàng". Ông già quắc
thước đưa mắt mỉm cười với các con , và phẩy tay, "Các con đứng lên đi. Thằng Tám sao rồi?"
Bát lang
ôm cánh tay của ông già, " Con
xin lỗi cha…"
Ông già gật đầu dịu giọng, "Bây giờ con theo cha về chứ?"
Thất lang
quỳ xuống, im lặng một chút , rồi nói nhỏ, "Thưa
cha …không…"
-
Con không về? Ông già bực bội,
Giải thích cho cha nghe. Tại sao
vậy?
Bát lang
cố gượng dậy, bước xuống bộ ván và quỳ trước mặt
ông già, nhưng quỳ sâu, quỳ lâu mà không nói.
Tám chàng
trai cũng quỳ xuống đồng loạt thưa , " Xin
cha từ tâm…."
Khuôn mặt
ông già cau lại, hàm râu màu nâu sẫm
như vểnh ngược, ông nhìn đăm đăm ngoài trời xa hồi lâu ,rồi dịu dần , hòa hoãn
lại, ông nâng Bát lang lên, và dịu dàng :
-
Hãy nói cho cha nghe con nghĩ thế nào.
-
Thưa cha…….giọng Bát lang rõ ràng hơn . Cha biết đó, chúng ta là giống rồng,
và chúng ta chịu thiên phong nên chúng ta có thần thông. Thần thông có thể làm
chúng ta hóa thân làm đủ mọi loài hình dáng khác nhau, xấu đẹp, hiền dữ đều có
thể làm được, nhưng có một thứ chúng ta không nhân bản được , vĩnh viễn không
làm được vì ai trong chúng ta cũng chỉ có một cái hồn. Cái Hồn đó là cái
bản chất riêng tư mỗi cá thể, là cái tâm để hành xử thiện ác, và là cái mang
theo trong suốt cuộc luân hồi.
Bát lang
ngừng lại để thở:
-
Chính từ cái tâm đó con biết yêu thương, con biết giận hờn, con biết trách
nhiệm thiên phong, con biết lòng cha và các anh em trìu mến, và con hiểu được
tình yêu. Con yêu em Lành không vì nhan sắc,không vì dục vọng, không vì
những lời nói phù phiếm bên nhau , mà vì tự trong tâm hồn của con và tâm hồn
của em Lành là những phối nhịp dịu dàng như một hòa âm. Ở bên em Lành con
được sống trong hoan lạc và an bình. Em Lành chết đi, nhưng cạnh mộ của em, vẫn
là những an ủi sâu lắng, là những tình cảm thiết tha không ngừng trao đổi với
nhau. Con chịu lỗi với cha nhưng con thật sự hạnh phúc nếu đựoc chết nhưng một
con người.
Bát lang
ngừng lại một chút để thở, sau đó nhấn mạnh," Được chết như một con người bên cạnh
em Lành".
Bát lang
gục xuống chân ông già. Và tất cả im lặng . Im lặng khá lâu, Ông già đứng giữa
lều, tám chàng trai thỏng tay đứng chung quanh và Bát lang quỳ dưới đất. Tất cả im lặng. Mọi người chợ đợi cơn
thịnh nộ của Thủy thần.
Ông già
lắc lắc cái đầu hai ba lần như để tỉnh táo lại, rồi tự tay nâng Bát lang lên bộ ván. Giọng nói của ông chùng
lại :
-
Con à, ta hiểu con rồi. Mỗi cá thể chỉ có một cái tâm, hướng cái tâm tới điều
ác thì thành quỷ sứ, hướng cái tâm tới điều thiện thì thành bồ tát, nay con đã
tự nguyện hướng cái tâm của mình vào một tình yêu thì con phải được làm con
ngừoi thôi. Phút cuối này ta không dùng lời khuyên nhủ con nữa, mà dùng tâm của
mình để chúc con an lạc.
Lại im
lặng một chút, rồi giọng Thủy thần dứt khoát:
- Ta đi đây.
Sấm nổ
vang trời, hào quang rực sáng, ông già đã biến mất. Bát lang đã kiệt lực, tám
người anh em nhìn Bát lang trút dần hơi thở cuối. Khi viên trân châu của Bát lang
cạn kiệt linh khí rồng rơi xuống là khi Bát lang từ bỏ cõi trần. Các chàng trai
đồng loạt thoát ra ngoài khi viên trân châu phủ ụp xuống lều tranh tạo ra một
tiếng nổ lớn và hóa thành một ngọn đồi đất phủ lên Bát lang, giống như ngày
trước Bát lang đã xử dụng thần thông để đắp ngôi mộ nàng Lành.
4
Núi Cấm
bây giờ thay đổi nhiều lắm, mới ba mươi năm trước là vùng đất hoang liêu cô
tịch không có lối đi lên, nay thì đường xe hơi đã chạy lên tới gần đỉnh núi.
Nhiều ngôi chùa được xây cất vĩ đại, khang trang .
Ông Tư
Thời kêu thằng cháu nội lấy xe gắn máy chở khách đi thăm các vồ trên núi. Vồ là
những khối đá lớn nhô ra từ núi Cấm, nhiều lắm các vồ với tên mang
dấu ấn một sự tích nào đó. Đường lên các vồ đá quanh co khúc khủy với nhiều
đoạn lên dốc cao dựng ngược, nhiều đoạn như lao xuống vực sâu. Có những vồ muốn tới phải băng qua những
lũng, có những vồ phải qua vực, nhưng cao nhất trong các vồ là vồ
Thiên Hậu, lúc nào cũng mờ mờ sương khói, nhìn xuống bình nguyên xa tít tắp
dưới chân. Đi thăm các vồ cũng mất cả ngày, chiều xuống, khách trở lại
ngôi nhà của ông Tư Thời, khách hỏi lại ông Tư Thời, câu chuyện chàng hoàng tử
thứ tám của Thủy Thần nghe sao hoang đường quá, ông có tin chuyện đó hay không?
Ông Tư
Thời trợn mắt , "Bây không thấy cửa Ba Thắc ngày nay đã bị cát bồi lấp kín
cửa sông sao? Cửu Long bây giờ chỉ còn 7 cửa, một cửa do con người xây
đập thủy điện làm bít cửa sông, và một cửa do thiên nhiên tự bồi,
và những gò giữa sông nay đã có diện tích lớn bằng hai huyện trong
đất liền".
Sau đó
ông Tư Thời thở dài, nhìn khách:
-
Tụi bây còn trẻ, tin hay không tự ý. Nhưng tin thiêng liêng thì có thiêng
liêng, không tin thiêng liêng... thì vẫn có thiêng liêng mà.
Nói xong,
ông chậm chạp đứng lên, lấy ba cây nhang ra đốt và hướng ra ngoài sân kính cẩn
vái lạy bốn phương trời.
Trời tối
rồi, bên ngoài còn mưa nặng hạt lắm, nhìn xéo qua bên kia, pho tựong Phật Di
Lặc cao tới 34 mét, lừng lững giữa trời, lâu lâu một tia sét lóe lên, sáng cả
khu vực , pho tượng trắng tinh hiện ra bất ngờ như từ cõi trời hạ
thế, chỉ một giây sau cả núi Cấm lại chìm trong bóng đêm u tịch
ngàn năm.
Khách
đứng kề bên khung cửa, nhìn ra ngoài , bỗng chợt nhớ tới hồi chiều khi lên Vồ
Thiên Hậu, trên vách đá kề bên, ai ghi lại hai câu thơ bằng sơn trắng :
Những vồ đá dựng soi thiên cổ
Nhìn xuống bình nguyên một khối tình
Hai câu thơ hình như muốn mô tả mối tình của chàng Bát lang với cô Lành, hoặc
có khi cũng chỉ trùng hợp vô tình của khách vãng lai khi lên thăm đỉnh
núi , xao động trước cảnh hùng vĩ của thiên nhiên và sự nhỏ nhoi của thân
phận con người, nên xúc động viết nên chăng ?
Sự thật thế nào chẳng ai biết rõ.
NGUYỄN
MINH NỮU
2 0 1 1
7 8