Ernest Hemingway (1899 – 1961), giải Nobel văn chương 1954
Ít có nhà văn nào sống cuộc đời sống động,
thú vị và nhiều mặt như Ernest Hemingway, một người mà sự nghiệp cứ như thoát
thai từ một trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu của mình. Cũng như
Fitzgerald, Dreiser và nhiều tiểu thuyết gia tài năng khác của thế kỷ 20,
Hemingway xuất thân vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Sinh ở Illinois, Hemingway trải qua
thời thơ ấu tươi vui với những chuyến đi săn và câu cá trong những kỳ nghỉ hè ở
Michigan. Ông tình nguyện vào một đơn vị cứu thương ở Pháp trong Thế chiến I, rồi
bị thương và phải điều trị sáu tháng. Sau chiến tranh ông làm phóng viên
thường trú ở Paris. Ở đây ông đã gặp nhiều nhà văn Mỹ xa xứ như Sherwood
Anderson, Ezra Pound, F. Scott Fitzgerald, và Gertrude Stein.
Sau cuốn The Sun Also Rises (1926) mang lại
thành công vang dội, ông viết bài tường thuật về cuộc nội chiến Tây Ban Nha,
Chiến tranh thế giới thứ II, và chiến sự ở Trung Quốc vào thập niên 40. Trong một
cuộc đi săn ở một hoang mạc châu Phi, chiếc máy bay của ông bị tai nạn và ông bị
thương nặng. Tuy thế, ông vẫn ham thích săn bắn và câu cá thể thao, những hoạt
động tạo nguồn cảm hứng cho những tác phẩm xuất sắc của ông. THE OLD MAN AND
THE SEA (Ông già và biển cả -1952), một cuốn tiểu thuyết ngắn, thi vị về
một ông lão đánh cá nghèo bắt được một con cá khổng lồ rồi nó bị đàn cá mập rỉa
sạch thịt, đã mang lại cho ông giải thưởng Pulitzer vào năm 1953. Năm sau,1954,
ông nhận được giải Nobel văn chương. Bệnh tật, nền tảng gia đình chông
chênh, và nghĩ rằng mình đã mất hết khả năng sáng tạo khiến ông bị
khủng hoảng và dùng súng tự sát vào năm 1961.
Có lẽ Hemingway là nhà văn Mỹ nổi tiếng nhất
của thế kỷ này. Văn phong đơn giản làm cho những cuốn tiểu thuyết của ông
trở nên dễ cảm thụ dù chúng thường được đặt trong những khung cảnh xa lạ với độc
giả Mỹ. Là một người tin vào “sự tôn thờ kinh nghiệm”, Hemingway thường để cho
nhân vật của mình vướng vào những tình huống nguy hiểm để bộc lộ bản chất bên
trong của họ. Trong những tác phẩm sau này của ông, mối hiểm nguy đôi lúc cũng
là một cơ hội để khẳng định tính cách của nhân vật.
Cũng như Fitzgerald, Hemingway trở thành người
phát ngôn cho thế hệ mình. Hemingway viết về chiến tranh, cái chết, và về cái
“thế hệ lạc lõng” của lớp người sống sót bi quan, yếm thế sau chiến tranh. Nhân
vật của ông không phải là những người mơ mộng mà là những tay đấu bò can trường,
những người lính hoặc vận động viên. Nếu là trí thức, họ thường mang những vết
thương chí mạng và không còn ảo tưởng gì cả.
Điểm đặc trưng trong lối viết của ông là
trong sáng, không có lấy một từ thừa. Ông thường sử dụng cách nói giảm nhẹ.
Trong A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí -1929), nhân vật nữ chết lúc sinh con
đã nói “Em chả sợ chút nào. Nó chỉ là trò đùa đê tiện”. Ông đã từng so sánh những
gì mình viết với những tảng băng trôi: “Có đến bảy phần tám của nó ở dưới nước
để một phần có thể phô bày”. Đôi tai tinh tường với ngôn ngữ đời thường và sự
mô tả chính xác của Hemingway bộc lộ trong những truyện ngắn đặc sắc của ông,
chẳng hạn “The Snows of Kilimanjaro” (Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro) và “The
Short Happy Life of Francis Macomber” (Hạnh phúc ngắn ngủi của Francis
Macomber”. Thật ra, các ý kiến phê bình thường xem những truyện ngắn của ông
ngang hàng hoặc cao hơn những cuốn tiểu thuyết của ông. Những cuốn tiểu thuyết
hay nhất của ông gồm The Sun Also Rises, về cuộc sống suy đồi của những người
lưu vong sau Thế chiến I; A Farewell to Arms, về một chuyện tình bi đát của một
người lính Mỹ và một nữ y tá người Anh trong chiến tranh; For Whom the Bell
Tolls (Chuông nguyện hồn ai) trong bối cảnh cuộc nội chiến Tây Ban Nha và The
Old Man and The Sea.
Trích trong cuốn Outline of American Literature {PHÁC
THẢO VĂN HỌC MỸ)
của Tiến sĩ Kathryn
VanSpanckeren.
Nguồn: Website của Sứ Quán Mỹ tại Việt Nam
3 2