Sau một thời gian xa nhà, năm 1970 tôi quay về
lại Tuy Hòa.
Tuy Hòa là một thành phố biển, giữa Nha Trang và Qui Nhơn, nằm bên
bờ sông Đà Rằng, dưới chân núi Nhạn. Người Tuy Hòa hiền hòa, hiếu khách, đặc
biệt rất yêu thơ.
Về đây tôi có dịp gần gũi với những người cầm bút của Tuy Hòa và
tham gia các sinh hoạt văn học nghệ thuật của thành phố dễ thương này.
Người tôi gặp gỡ nhiều nhất là anh Trần Huiền Ân, tác giả tập thơ
THUYỀN GIẤY, nổi tiếng với những bài thơ đậm đà màu sắc quê hương. Thơ của
anh đã từng được dùng trong sách giáo khoa dành cho học sinh
bậc tiểu học do ông Bùi Văn Bảo biên soạn. Trần Huiền Ân chơn chất, đôn
hậu, nhã nhặn, và khiêm tốn. Anh có khả năng ở nhiều lĩnh vực: văn, thơ, biên
khảo, và cả hội họa nữa..Một người luôn sát cánh bên Trần Huiền Ân và tôi
là Đỗ Chu Thăng, tác giả tập thơ CHÂN CẦU CŨ. Đỗ Chu Thăng là
giáo sư toán thuộc loại giỏi, nổi tiếng là một nhà giáo rất nghiêm khắc với học
trò. Ngoài đời anh là một thi sĩ hiền lành, nhũn nhặn, được nhiều người quí mến
và kính trọng. Sáng nào ba chúng tôi cũng gặp nhau ở bãi biển rất sớm để tắm
biển, sau đó tỏa ra các trường để dạy học. Cuối tuần chúng tôi thường gặp nhau
ở nhà anh Lê Công Minh, bút hiệu Lê Phương Nguyên, ở đó rất nhiều đêm thức
trắng, cùng làm thơ, đọc thơ.
Hầu như chiều nào tôi cũng gặp Phạm Ngọc Lư. Phạm Ngọc Lư gốc Huế,
sau khi tốt nghiệp sư phạm được bổ nhiệm về dạy ở Tuy Hòa. Lư xuất sắc cả văn
xuôi lẫn thơ, đặc biệt có tài thổi sáo và rất giỏi chữ Hán. Có một bài thơ của
Phạm Ngọc Lư hồi đó tôi thuộc lòng, nghĩ rằng đây là một bài thơ hay, nhưng sau
này trong hai tập thơ Lư xuất bản tôi không thấy có bài thơ này.
KỲ HUÊ
Đêm nay trong cõi tôi về
Ngát hương xuân động Kỳ Huê ra đời
Xin vàng ươm nụ đầu môi
Thếp sơn cành lạ vẽ chồi lộc non
Đêm nay tôi mất hay còn
Gieo tình xuống cát đợi mòn dấu cây
Ơn xin rễ mọc lòng tay
Nâng niu tuổi mọn xuân đầy trong Huê
(Thơ Phạm Ngọc Lư, 1971)
Một khuôn mặt cũng rất gần gũi với tôi là Mang Viên Long, nổi
tiếng với những truyện ngắn sắc sảo và tinh tế. Anh gốc ở Bình Định, vào
Tuy Hòa dạy học. Mang Viên Long sôi nổi và năng nổ. Giai đoạn ấy, trong số
những cây bút ở Tuy Hòa, Mang Viên Long là người viết khỏe nhất. Đi dạy thì
thôi, về tới nhà là cứ ngồi trước máy đánh chữ gõ lọc cọc. Lúc nào cũng thấy
anh tất bật với việc viết lách.
Tuy Hòa là nơi sản sinh ra nhiều cây bút viết truyện ngắn xuất
sắc. Môt trong những cây bút xuất sắc đó là Nguyễn Lệ Uyên. Nguyễn
Lệ Uyên dạy học ở Gò Công, chỉ về Tuy Hòa vào dịp nghỉ
hè hay Tết Nguyên Đán. Nguyễn Lệ Uyên mê sách, báo, đọc nhiều, và nắm được
nhiều nguồn tư liệu.
Tuy Hòa có một thi sĩ nổi tiếng rất sớm: Hoàng Đình Huy Quan, tác
giả tập thơ MỞ CỬA. Lúc tuổi chưa tới hai mươi, Hoàng Đình Huy Quan đã có tên
trong ban biên tập của tạp chí VĂN HỌC ở Sài Gòn. Khi tôi quay về lại Tuy Hòa
thì Hoàng Đình Huy Quan đã lưu lạc vào nam bộ, thỉnh thoảng mới về gặp gỡ anh
em. Thời gian này Hoàng Đình Huy Quan thành lập nhà xuất bản ĐỒNG DAO. Các tập
thơ ĐỜI NHƯ MỘT KHÚC NHẠC BUỒN của Phạm Cao Hoàng, CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI
của Nguyễn Bắc Sơn, NĂM NĂM DÒNG SÔNG THƠ của Trần Huiền Ân,
DẠO NÚI MÌNH TA của Hà Thúc Sinh, CHÂN CẦU CŨ của
Đỗ Chu Thăng, TRÊN THẢM CỎ XANH ĐỜI của Khánh Linh, GIỮA MUÔN
NGÀN LY BIỆT của Quan San… do nhà xuất bản ĐỒNG DAO ấn hành trong những
năm ấy là nhờ một phần công sức của Hoàng Đình Huy Quan.
Nhắc đến văn nghệ Tuy Hòa không thể không nhắc đến Khánh Linh,
Triều Hạnh, Nguyễn Tường Văn, Phan Bá Chức, Nguyễn Sông Ba, Nguyễn Duy Tẩm.
Khánh Linh và Triều Hạnh tôi gặp khá thường xuyên. Còn Nguyễn Tường Văn,
Phan Bá Chức, Nguyễn Sông Ba và Nguyễn Duy Tẩm ở Đà Lạt, lâu lâu về
nhập bọn, rất vui.
Không gian văn nghệ Tuy Hòa những năm đầu thập niên 70 vô cùng ấm
cúng. Trong một lần sinh hoạt chung với anh em văn nghệ Tuy
Hòa, nhà văn Duyên Anh rất bất ngờ về sự ấm cúng này. Sau này, Duyên Anh có
viết lại kỷ niệm lần gặp gỡ ấy trong bút ký CŨNG GỌI LÀ MỘT CHUYẾN ĐI.
Văn nghệ Tuy Hòa có số thân hữu lên đến hàng trăm, mà hầu như lúc
nào họ cũng có mặt trong những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật và những đêm
thơ nhạc do chúng tôi tổ chức. Họ dành cho chúng tôi những tình cảm thân
thương, những chia sẻ ân cần, và những khích lệ quí báu. Bên cạnh đó,
nhiều cây bút ở các địa phương khác lâu lâu ghé lại làm cho Tuy Hòa ấm áp thêm.
Vùng đất Tuy Hòa dạo ấy đã có dịp đón tiếp nhiều cây
bút tài hoa: Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Lê Văn Trung, Tạ Chí Đại Trường, Đỗ
Toàn, Thế Vũ, Nguyễn Âu Hồng, Nguyễn Sa Mạc, Lê Ký Thương, Nguyễn Việt Nam,
Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Lệ Tuân, Tô Duy Thạch, Lê Văn Thiện,
Trần Vạn Giã, Nguyên Minh, Võ Tấn Khanh...
Riêng Nguyên Minh và Võ Tấn Khanh sau này bám rễ và thành rể Tuy Hòa
luôn.
Chúng tôi có nhiều kỷ niệm với hai quán cà phê: cà phê CÂY PHƯỢNG
ở gần trường trung học Nguyễn Huệ, và cà phê NHỚ gần ga xe lửa.
Chủ nhân quán CÂY PHƯỢNG là anh Lê Tăng
Mính, một người yêu thích văn chương. Sách của chúng tôi gửi ở các nhà sách bán
không chạy lắm, nhưng gửi ở quán CÂY PHƯỢNG thì bán được khá nhiều.
Trong sân quán có một cây phượng rất lớn. Các áp-phích giới thiệu sách
mới xuất bản được treo trên các cành phượng. Chủ nhân quán NHỚ là cô V, nhân
vật đã từng được Duyên Anh nhắc đến trong bút ký tôi đề cập ở trên. Sau này tôi
gọi quán NHỚ là QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V. (Cao Thoại Châu có
một bài thơ nổi tiếng, tựa đề QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V(*). Tôi mượn
anh Cao Thoại Châu tựa đề này để đặt tên cho quán
NHỚ ở Tuy Hòa). Mỗi một người trong chúng ta đều gắn bó
với một góc quán, một con đường nào đó . Anh Lê Tăng Mính
không còn, nhưng QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V. ở Tuy Hòa
thì vẫn còn đó. Nếu có dịp trở lại Tuy
Hòa, một trong những nơi tôi cần đến để tìm lại những kỷ niệm
của một thời sẽ là QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V.
Tuy Hòa 1970-1972 là những tháng năm đầy ắp kỷ niệm trong tôi.
Bước giang hồ tưởng đã dừng lại, nhưng rồi tôi lại ra đi, và lần đi này là biền
biệt. Tôi trôi giạt về Đơn Dương, Đức Trọng, Đà Lạt;
cho đến một ngày tôi phải làm chuyến đi xa
nhất của đời mình. Trong hành trang mang theo ngày tôi rời đất nước có những
giọt sương của cao nguyên Lâm Viên, có tiếng sóng biển của Qui Nhơn, có tiếng
gió biển của Phan Thiết, và có mây khói của Tuy Hòa mà một thời đã làm nhẹ bước
chân tôi.
PHAM CAO HOÀNG
Virginia 2009
____________________________________________
HẸN XƯA
Trần Huiền Ân
Tôi
đi học giữa những ngày kháng Pháp
Áo
quần thô xám nếp vải xi ta
Đêm
đến lớp ngọn đèn chai gió táp
Tắt
vội vàng khi tiếng máy bay qua
Chúng
tôi ngồi quanh hiên đình chật hẹp
Bóng
thầy chao trên vách chắn phên thưa
Chòm
tóc ngắn bên những vồng tóc kẹp
Ngước
uống từng lời mắt sáng đong đưa
Ngòi
bút dùng gốc tre già vót nhỏ
Giấy
nam trung còn dấu sợi rơm hiền
Son
thầy phê vàng hoe màu thuốc đỏ
Tôi
nâng niu từng nét chữ nghiêng nghiêng
Tan
buổi về lo chăn bò, cắt cỏ
Đắp
nước, thăm đồng, mót lúa, đuổi chim
Thương
cha mẹ già nua còn khốn khó
Nước
mắt xuôi hàng..máu ngược về tim
Tuổi
học trò của tôi là thế đấy
Trên
đất khô cằn vượt nở hoa tươi
Quen
thuộc quá nên nhọc nhằn chẳng thấy
Vòng
tay ôm hoài bão ấm môi cười
Chúng
tôi căm hờn quân thù tàn ác
Đốt
sách, giết thầy, phá sập trường quê
Lưỡi
lê nồng tanh máu người bạo sát
Đã
không chừa em nhỏ mới a b
Chúng
tôi nguyền lớn lên cùng xây dựng
Đất
nước Việt Nam độc lập hòa bình
Cho
những ngôi trường oai nghi sừng sững
Tiếng
hát học trò thêm sáng bình minh
Và
bây giờ theo tháng ngày xưa tính
Bạn
bè trôi lưu lạc mất trong hồn
Tôi
ngỡ ngàng tra thân vào nghiệp lính
Chợt
giật mình nhìn lại hẹn lớn khôn
Buổi
hàng buổi theo đoàn quân tiến bước
Ra
thao trường tắm nắng gội mồ hôi
Tôi
nhìn các em – nhìn tôi thuở trước
Chạy
dọc đường bưng rổ bánh mâm xôi
Lời
em rao lên cao rồi tắt nghẽn
Tầng
dư ba không lả lướt chào mời
Đôi
tay gầy cặm xương vào xác én
Khấp
khểnh chân trần nhịp thở chùng hơi
Bán
đi em, nhanh nhanh về đi học
Rồi
thả trâu, rồi bế bé, trông nhà
Tôi
xét mình xin cúi đầu trách móc
Bao
lỡ lầm thiếu sót phận anh cha
Nên
các em còn bơ vơ đói rách
Sớm
tảo tần mong kiếm bát cơm vơi
Bốn
năm tuổi mũi thòng chưa lau sạch
Đã
đua tranh chen chúc với dòng đời
Tôi
tự hỏi mình xưng tên chiến đấu
Cho
các em cùng nối mộng cao xa
Hay
cho những người cười trên lửa máu
Thêm
sang giàu nhờ xáo thịt nồi da?
1966
QUÁN CỦA NGƯỜI TÊN V.
Cao Thoại Châu
Đường sinh tử một vòng chưa khép
Tạt vào đây quán trọ đời em
Rót cho tôi chai nào cay đắng nhất
Hồn tôi là một chiếc ly không
Mái quán em tường xiêu giấy lợp
Hào phóng đời cho mượn ánh đèn
Tôi sẽ thắp giùm em thêm chút nữa
Dẫu chỉ là đom đóm trong đêm
Bàn ghế nhựa làm sao rơi loảng xoảng
Rừng ở đâu cho phá đá cưa cây
Em chỉ cho mượn tạm chiếc ly này
Không cho đập lấy gì phóng đãng
Chủ quán ơi hôm nay ngày tháng mấy
Nhân loại trừ tôi còn lại được bao người
Mái quán em thành trời cao vời vợi
Để cái nền làm vỡ chiếc ly rơi
Trăm cơn sầu đang đổi cơn say
Tôi đốt quán em đừng buồn tôi nhé
Mở giùm tôi chai nào cay đắng nữa
Ly vỡ rồi cứ đổ xuống thân tôi
2009
KỲ HUÊ
Phạm Ngọc Lư
Đêm nay trong cõi tôi về
Ngát hương xuân động Kỳ Huê ra đời
Xin vàng ươm nụ đầu môi
Thếp sơn cành lạ vẽ chồi lộc non
Đêm nay tôi mất hay còn
Gieo tình xuống cát đợi mòn dấu cây
Ơn xin rễ mọc lòng tay
Nâng niu tuổi mọn xuân đầy trong Huê
1971
NHỮNG NHỊP CẦU ĐEN BUỒN BÃ
Phạm Cao Hoàng
anh lầm lũi như kẻ lạ mặt
sớm tinh sương đạp xe qua cầu
cầu gập ghềnh như đời anh xuôi ngược
nên không cầm được nỗi lo âu
những sớm mai phố im lìm ngủ
có ai hay một bóng âm thầm
mắt nhìn sông sâu mà lòng muốn khóc
buồn nào như bọt sóng vô tăm
mùa nước lớn nước xuôi cuồn cuộn
bóng chim qua soải cánh mù tăm
mây xuống thấp cùng mưa buồn vỡ chết
anh lặng thầm nay đã bao năm
hỡi những nhịp cầu đen buồn bã
có buồn không những sớm mưa qua
có se sắt như lòng tên đãng tử
đã dừng chân đứng lại bên bờ
có heo may như gió đầu tháng chạp
thổi đầy trời, thổi giạt bóng mây xa
mùa nước cạn cát trùng trùng cuối bãi
cỏ rêu kia xa cách đời nhau
anh dõi mắt mà trông niềm ly biệt
như lòng sông khô nước dưới chân cầu
chân đã qua mắt còn nhìn lại
cầu thì cao sông nước thì xa
nên ngàn năm lạnh lùng soi đáy nước
không làm sao nối được lòng chúng ta
những sớm mai hồng tim anh rướm máu
những sớm thu sang hiu hắt mưa buồn
anh lăn vòng xe từng vòng hụt bước
xe lăn qua mau những nhịp tình không
những sớm mai
xanh một dòng nước biếc
anh nhìn chim vỗ cánh giữa mênh mông
chim bay trời cao nước xuôi dưới thấp
buồn nào như gió ngủ trên không
hỡi những nhịp cầu đen buồn bã
đã bao năm không nối được lòng nhau
thì ngàn năm cũng hoài mong đợi
như cầu cao soi bóng đáy sông sâu
1 9 7 1
Bâng khuâng một chút vườn sau - Ảnh PCH - Quê nhà, 2012
Ngậm ngùi ngõ trước lao xao nắng vàng - Ảnh PCH - Quê nhà, 2012