PHẠM CAO HOÀNG
Phạm Ngọc Lư, một đời tài hoa
Năm 1970 tôi được thuyên chuyển về dạy
học ở Tuy Hòa. Đây là khoảng thời gian tôi có dịp rong chơi với Phạm Ngọc Lư. Phạm
Ngọc Lư quê ở Huế, sau khi tốt nghiệp sư Phạm Qui Nhơn vào năm 1967 anh được phân
công về dạy ở Tuy Hòa. Anh thuê chỗ trọ ở đường Nguyễn Huệ và ăn cơm tháng ở tiệm
ăn Mỵ Châu Thành. Chỗ anh ở trọ chỉ cách
nhà tôi một con đường, chiều nào anh cũng ghé nhà tôi chơi, thân đến mức giống
như người trong nhà. Vì lý do nào đó mà
năm ba hôm không thấy anh đến là cha tôi lại hỏi: “Mấy bữa nay sao không thấy Lư ghé chơi?” Sau năm 1975, gia đình tôi
tan tác, anh em mỗi người một phương, sau này gặp lại nhau bên Mỹ, mỗi khi nhắc
lại bạn bè cũ ở Tuy Hòa, các anh của tôi vẫn nhắc đến Lư. Lư hiền lành, ít nói,
và hơi bất cần đời. Anh có biệt tài thổi sáo và rất giỏi chữ Hán vì trước khi
vào sư phạm anh học ở Viện Hán Học Huế. Truyện và thơ của anh đều hay, với lối
viết sắc sảo, cô đọng và chặt chẽ; đặc biệt trước 1975 truyện của anh xuất hiện đều đặn
trên tạp chí Văn ở Sài Gòn – điều mà các cây bút trẻ dạo ấy không dễ gì có được.
Cũng như Y Uyên, Bùi Đăng, Mang Viên Long, anh có thời gian dạy học ở vùng nông
thôn Phú Yên, trực tiếp chứng kiến những
cảnh tượng hãi hùng của chiến tranh. Anh luôn ưu tư về tinh hình đất nước và phần
lớn các sáng tác của anh đều có nội dung tố cáo và lên án tội ác của chiến
tranh. Tôi chính thức tham gia vào sinh
hoạt văn học nghệ thuật ở Tuy Hòa từ năm 1970 đến 1972, trong khoảng thời gian
đó ngoài Phạm Ngọc Lư tôi thường gặp các anh Trần Huiền Ân, Đỗ Chu Thăng, Mang
Viên Long và điều trùng hợp ngẫu nhiên là tất cả đều là giáo chức. Sau năm
1975, vì nhiều lý do khác nhau tất cả đều không còn làm nghề dạy học. Mỗi khi
nghĩ đến chuyện các anh không còn đi dạy tôi không khỏi chạnh lòng vì tôi biết
rõ các anh rất yêu nghề dạy học. Các anh rơi vào cảnh lỡ thợ lỡ thầy. Trần Huiền
Ân chuyển qua làm nghề vẽ pa-nô và bảng hiệu, Đỗ Chu Thăng về quê ở Hòa Mỹ làm
ruộng, Mang Viên Long về quê ở Bình Định làm nghề sửa ổ khóa, còn Phạm Ngọc Lư
lưu lạc vào Long Khánh, ngồi ờ ngoài chợ bán dừa, bắt đầu đoạn đời lận đận lao
đao từ đó. Khi tạp chí Thư Quán Bản Thảo do Trần Hoài Thư và Phạm văn Nhàn chủ
trương ra đời, Phạm Ngọc Lư viết khá đều vả gửi bài cộng tác – chủ yếu là thơ,
những bài thơ rất buồn, nhưng chỉ một thời gian sau thì anh tuyên bố ngừng viết.
Một số email anh gửi tôi cách đây 4 năm cho thấy anh đang trải qua những ngày
tháng vô cùng khó khăn, không còn tha thiết gì đến văn chương, nhưng không nói
rõ khó khăn gì mà tôi thì không tiện hỏi. Trên các diễn đàn văn học, bài vở cộng
tác của anh thưa thớt dần rồi không thấy nữa. Một đời tài hoa rồi cũng đến lúc
phải dừng lại và những ngày này anh đang nằm trên giường bệnh. Xa xôi quá,
không giúp gì cho anh được. Mong anh hãy lạc quan, hãy hy vọng mọi chuyện rồi sẽ
ổn. Mong rằng số báo Thư Quán Bản Thảo đặc biệt này là một liều thuốc tinh thần
gửi đến anh.
Phạm
Cao Hoàng
Virginia, 13.5.2016
(Bài đã đăng trên Thư Quán Bản Thảo số
70 – Tháng 6.2016, chủ đề Phạm Ngọc Lư)
________________________________
TRỞ
VỀ PHÁ TAM GIANG
Thơ
Phạm Ngọc Lư
Phá Tam
Giang, phá Tam Giang
Gió hiu
hiu sóng gợn mơ màng
Trời vẫn
xanh màu xanh cố cựu
Mây trầm
ngâm, khói nước miên man
Mười năm
dong ruổi mòn đất khách
Về cố
hương chiều xế nắng tàn
Bỏ nón,
tháo giày, xăn tay áo
Rửa phong
trần thẹn với Tam Giang
Kè đá rêu
xưa ngâm bến cũ
Còn người
đi người đợi đò ngang
Còn xóm
chài lưa thưa mảnh lưới
Còn nhấp
nhô thuyền thúng thuyền nan
Không còn
người chèo đò năm xưa tóc bạc
Cô lái đò
chiều nay trán nhăn
Trong mắt
nhìn ta trách móc
“Mười mấy
năm chú mới về làng”
Mười mấy
năm? Phải rồi, ta quên mất
Cái thuở
áo cơm trở mặt phũ phàng
Điêu đứng
năm Mùi ra đi năm Tuất
Ra đi mưu
cầu y thực
Trở về
nặng trĩu gian nan
Nhớ buổi
ra đi thân tình đưa tiễn
Vợ xếp
trang thơ chị gói khúc đàn
Đệ tử
mươi người tung hô dâng rượu
Thôn nữ
vài em gửi gấm gió trăng
Mẹ tóc
trắng nhìn theo lặng lẽ
Con tóc
xanh hai đứa dùng dằng
Ta mím
môi, chỉ phá Tam Giang thề hẹn
Không là
Tương Như mà khí khái dâng tràn
Bước
xuống thuyền nhìn trời cao dõng
dạc
Gõ mạn
thuyền ngâm khúc “Hành Phương Nam”
Hành
phương Nam, hành phương Nam
Mười mấy
năm tấm cám, thau vàng
Thấp cao
danh lợi
Chí khí
dở dang
Tơi tả
bao phen buồn thân
thế
Đắng cay
mấy bận khiếp hồng nhan
Mưa miền
nam, nắng miền nam
Trông mây
thấp thỏm, nghe gió bàng hoàng
Mười mấy
năm trôi qua không nhớ
Quá đỗi
mưa đau
Quá nhiều
nắng khổ
Lẽ nào
Trời bỏ ta chăng
Đọc thơ
Nguyễn Bính chua tâm sự
Đọc lại
thơ mình thẹn gió trăng
Chén rượu
quê người sao mà bạc
Ân tình
đất khách lắm đa đoan
Chiều nay
về… bên phá Tam Giang
Phía bờ
đông vẫn xóm vẫn làng
Mười mấy
năm còn ai trông ngóng
Mười mấy
năm mỏi mòn ước vọng
Mẹ có
thương con gió bụi lầm than?
Chị có
xót em một đời thất chí?
Em không
buồn ta?
Sao lòng
ta phai nhạt đá vàng
Phá Tam
Giang, ôi phá Tam Giang
Gió hiu
hiu sóng gợn mơ màng
Nước vẫn
mặn mòi, mây quen thuộc
Sao lòng
ta sóng gió ly tan
Xin xấu
hổ với lòi thề ngày trước”
“Không
công danh bất phục hoàn”
Xin biết
ơn cô lái đò nhân hậu
Còn
thương ta mời ta quá giang
Thôi rửa
hết phong trần nơi bến nước
Để trở
về…đừng khóc dưới hương quan
Phạm Ngọc Lư
1 9 9 6
Trích
trong tập ĐAN TÂM, thơ
Phạm Ngọc Lư - NXB Thư
Ấn Quán, 2004