t
ù y b ú t
nguyễn xuân thiệp
T R À C A
T R À C A
CHÉN TRÀ ĐỊA NGỤC MÔN
Bình Trà. Tranh
Casey Shannon
Bạn
nhớ không, những năm sau 1975, các quán trà của Hà Nội xã hội chủ nghĩa đã tìm tới Sài Gòn. Người
đầu tiên nảy ra sáng kiến mở một quán trà theo mô thức miền Bắc là Tô Kiều
Ngân. Chỉ sau 30 tháng Tư một vài ngày là anh đã căng bạt trước trụ sở tạm của
Hội Văn Nghệ Giải Phóng ở đường Trương Minh Giảng, bày bàn ghế ly tách ra. Cũng
có trà và thuốc lào. Văn nghệ sĩ miền
Nam, mặt mày còn ngơ ngác thất sắc, tụ lại đây với khẩu khí đã tự uốn nắn cho hợp
thời thế. Tôi cũng lò dò tới xem chơi cho biết. Thấy có Trịnh Công Sơn, Kim Tuấn,
Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Thị Vinh, Động Đình Hồ (Nguyễn Hữu Nhật), Trần Hoài, Nguyễn
Thu Minh và nhiều người nữa, không nhớ hết. Rồi T. Lg. xuất hiện với dép da, quần
kaki vàng, áo nâu, tay xách cặp. Lại có cả những văn nghệ sĩ mang băng đỏ, súng cặp bên hông, vào ra nhộn
nhịp. Tất cả như đèn kéo quân, cùng nhau “đi phó hội u minh”. Mới đó mà đã
ngoài mấy chục năm. Bây giờ chúng ta nhiều người đã tỉnh, ngoảnh nhìn lại những
trò mây chó không khỏi giật mình.
Bạn
ơi, ta uống thêm vài chén trà nữa để cái ác trong lòng, nếu có và còn sót lại,
thì tiết hết ra ngoài lỗ chân lông, như Lỗ Đồng đã nói. Sài Gòn của tôi và bạn ở
những ngày ấy sao biến dạng đến thế, như một tấm gương bám bụi, rạn vỡ. Cái
hình ảnh tang thương nhất đập vào mắt người phường phố Sài Gòn là nhà ga xe lửa
ở trung tâm thành phố - nơi các đại lộ Lê Lai, Lê Lợi, Hàm Nghi, Trần Hưng Đạo
đổ tới - nhà ga này kể từ những năm đầu thập niên 80 chỉ còn là cái xác. Đã vắng
những đoàn tàu. Đã thiếu không khí mùi than đượm và những tia lửa, những tiếng
còi. Để chỉ là mùi mồ hôi và nước đái. Đã không còn nữa những cuộc chia ly, đưa
đón. Bạn đã từng là nhân vật chính của sân ga này chứ? Người yêu của tôi, và là
vợ tôi sau này, đã tiễn tôi lên tàu về Huế vào một chiều đầu hè, hình như có nắng
đẹp (nếu không có đi nữa thì ta cứ tưởng tượng ra thôi, có chết ai đâu nhỉ?) Và
tôi cũng đã một lần đưa Sương Trúc về lại Quy Nhơn trên sân ga này. Còn nhớ lúc
chia tay, cô bé trao tôi cuốn Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết, bảo rằng để anh
đọc và nhớ, rồi tàu lăn bánh. Ở thời điểm những năm đầu 80, nhà ga đã đổi hồn.
Hồn xưa đã chết. Bây giờ nó mượn hồn khác. Hồn du đãng, bụi đời, hồn lang thang
không lửa ấm. Thềm ga, chỗ những người tiễn đưa nhau vẫn đứng ngày xưa ấy, bây
giờ là nơi tụ họp của những người tứ xứ. Gốc Sài Gòn có. Từ cao nguyên xuống
có. Từ miền Trung vào, và đặc thù nhất là những lưu dân từ Hà Nội trôi giạt tới
đây. Vài gia đình bỏ vùng kinh tế mới về lấy vỉa hè làm nơi cư ngụ. Họ làm đủ
nghề, từ buôn bán trôi nổi, xích lô, xe thồ, chích choác xì ke ma túy, ma cô,
mãi dâm, đấm bóp, giác hơi... Một vài kẻ sĩ
của thời ngụy sử thỉnh thoảng cũng ghé qua, ý chừng để tìm hương cay vị
đắng, chất liệu cho một tác phẩm lớn đang tượng hình. Đặc biệt, có một cô bán
trà từ miền Bắc vào. Vẫn là cái ấm nước trên lò than nhỏ, bình trà và chiếc điếu
cày. Nó là trà chui, trà chạy, nên phải thật gọn, nhẹ. Chính bạn tôi, Nguyễn
Minh Diễm, dắt tôi đến chỗ này vào lúc
ngày tàn đêm tới. Diễm nói: “Không khí ở đây lạ lắm, nửa đực nửa cái, nửa âm nửa
dương.” Phải rồi. Tôi chợt nhớ đến một đoạn phim video chiếu cảnh đường phố
Catinat về khuya với một ca khúc của Trần Văn Trạch nói tới một mối tình nào
đó. A, trận bão đã thổi ngược, lật lên bề trái của một tấm bích chương. Anh Trạch
ơi, làm gì còn những mối tình như trong L’Amant
của Marguerite Duras nữa. Chỉ còn những ngọn đèn hột vịt ủ ê soi một vỉa
hè tróc lở với nhửng mặt người méo mó. Tôi tới đây đôi lần với Diễm, có khi với
Nguyễn Trung Dũng từ Bảy Hiền đạp xe lên hẹn gặp. Nhưng thường tôi đi một mình.
Và, trong một khổ thơ, tôi gọi nơi sân ga ngày xưa này là cửa vào cõi ăm, và
chén trà đắng lịm người uống vào những
đêm không giờ tại đây là Chén Trà Địa Ngục Môn. Đây, tôi đọc bạn nghe:
Thầy trò sư sang thu kinh
Quán hẻo. chùa không
Nửa đêm gió quỷ thổi cây trăng rụng lá
Vàng lối khuya
Nhìn lên
Chữ đề
Địa Ngục Môn
Cổng tam quan lừng hương trà mộc
Dưới hiên lửa đỏ
Xúm xít qua đêm. những hồn không nhà
Chăn. chiếu. bát. nồi. và trẻ nhỏ
Những mảnh đời húp cháo khuya
Tôi dừng lại. gác xe lên hè phố
Cô hàng ơi. cho một chén trà
Trong chất đắng có chút gì lãng đãng
Mật của hoa và hạt lệ đỏ pha
Cười nhé
Đời thổi bạt ta ra hè phố
Mỗi gốc cây là một mái nhà
Soi đáy chén ửng màu nâu sậm
Ánh trăng tan. giọt máu đời ta
Thuốc lào kéo. thấy sông trôi đầy gỗ
Cơn say. ô. một ngụm khói phà
Mắt mở nhắm. hình người lố nhố
Tiếng cười âm trong tiếng tiền rơi
Bụng đói. hiên khuya. trẻ khóc
Ôi chén trà, om bát mê hồng
Thầy
trò sư rời địa ngục môn.
Nguyễn Xuân Thiệp
Kỳ
sau:
TRÀ
TRÊN ĐỈNH PHÙ VÂN