t
ù y b ú t
nguyễn xuân thiệp
T R À C A
TRÀ UỐNG TRONG THÀNH ĐÁ XANH
Bình Trà. Tranh
Casey Shannon
Kể
từ những buổi uống trà tường vi và trà cúc năm ấy, đã không còn những giây phút
êm ả đầy chất nghệ thuật và trí tuệ nữa. Chiến tranh ngày càng khốc liệt và lịch
sử lên cơn, cuốn theo số phận hàng triệu con người. Tháng tư 1975, Cộng Sản chiếm
miền Nam. Trại tù dựng lên khắp nơi từ Nam ra Bắc,nhốt hàng mấy trăm ngàn người
trong đó.
Nghệ
Tĩnh 1979. Từ Bắc Thái, đoàn tù chúng tôi được xe molotova chở về đây. Ở đây,
trong thành đá xanh thời Trung Cổ này, tôi gặp được nhiều người trong giới văn
học nghệ thuật thời trước: Tô Thùy Yên - đã cùng tôi đi suốt chặng đường oan
nghiệt từ Cẩm Nhân Yên Bái về Bắc Thái rồi về đây - Hà Thượng Nhân, Nguyễn
Trung Dũng, Vũ Đức Nghiêm, Chu A Hạnh, Xuân Bích, Phạm Hoàng... Ở đây, chúng
tôi có những buổi uống trà thật đặc biệt. Tôi gọi là những buổi uống trà trong
thành đá xanh. Tại sao lại thế?
Này...
hình như bây giờ tuyết xuống nhiều hơn. Nhìn qua cửa sổ, tuyết bay như những
cánh bướm trắng. Để tôi đun thêm ấm nước nữa rồi đọc bạn nghe một đoạn trong
truyện ngắn của Nguyễn Trung Dũng Nhà Sư,
Khách Viếng Chùa, Dưới Trăng Đọc Trà Oán, nói về lai lịch những buổi uống
trà trong thành đá xanh:
“
Quân đội Trung Quốc gây hấn, tạo áp lực suốt vùng biên giới, đe dọa các tỉnh
Lai Châu, Lao Kay, Tuyên Quang,Sơn La và Yên Bái. Tù giam trong các lán trại
thuộc các địa danh đó được phân tán và chuyển xuống các miền đất Trung Phần.
Sau hai đợt “biên chế”, T6 Nghệ Tĩnh có trên ngàn tù nhân bị nhốt. T6, một trại
giam của Pháp bỏ lại thuộc huyện Thanh Chương. Nằm sâu trong một vùng hẻo lánh,
đất cát khô cằn sỏi đá, làng bản thưa thớt vắng vẻ, cư dân ít người. Xa gần,trải
dài và rộng là những ngọn đồi trồng trà. Mé sau bức tường thành trại, dưới tầm
mắt nhìn, núi đá dựng vách với màu xám xịt. Bằng cốt mìn, người ta cho núi nổ để
lấy đá. Tiếng nổ long trời lở đất bay về tới trại. Mảnh miểng, và có khi đá cục
bằng nắm tay, rớt lên mái tôn thiếc nghe loảng xoảng. Tù, bằng xe cải tiến, ba
người một chở đá về trại. Đá để xây cả một hồ nước rộng dùng làm nơi tắm táp của
tù, xây bể chứa, xây giếng, xây tường, vách nhà và sạp nằm cho người bị giam nhốt.
Đấy, “bữa trà trong động đá xanh” sở dĩ có là như vậy. Còn ở tù, lấy đâu ra trà
mà uống phong lưu như thế. Chẳng qua là, trong số họ, có người làm trong đội
trà, được cử đi hái, thì sau khi đem nộp, họ lén lấy cắp trà bỏ túi mang về. Lấy
cắp trà, lọt thì không nói, nếu không lọt mà bị phát hiện, nhẹ thì kiểm điểm, nặng
bị cùm giam. Ở nhà bếp, việc ca cóng linh tinh, nấu nướng “cải thiện” tự ý, tuyệt
đối bị cấm ngặt. Vậy mà, họ vẫn sao được trà để cất giấu uống lâu ngày. Sao sấy
lén lút như thế, nếu có kẻ xấu đi báo cáo, tất không khói bị trừng phạt.” Ở
đây, tôi cần nói thêm là người lấy trà là Chu A Hạnh (nay không còn nữa) và người
sao trà là Dũng Nhà Bếp. Khách uống trà gồm đủ mặt văn nhân nghệ sĩ trong trại,
cộng thêm những trang kiệt hiệt, chữ nghĩa Tây Tàu Anh Đức cùng mình, thỉnh thoảng
có thêm mấy tay đàn guitare classique Những buổi uống trà như thế thường có
khoai sắn bưởi bòng do anh em chôm chỉa hoặc đổi chác với dân địa phương mang về.
Giờ trà là từ lúc nắng sắp tắt cho đến kẻng “vào chuồng” nhá nhem tối. Uống trà
như thế có khi vui và hứng khởi, nhưng thường đầy u uất, thống khổ bởi cảnh ngộ
nước mất nhà tan, tấm thân đày đọa. Đây, bạn nghe một đoạn trong bài Trà Oán
mà tác giả truyện Nhà Sư...đã dùng để
dẫn truyện:
Ngồi lại quanh đây nồi trà thơm
Hãy nhớ nhé cánh trà oan khổ
Bạn bè hái từ trên núi xanh
Cất giấu qua bao tầng địa ngục
Nhớ mồ hôi và giọt máu tươm
Từng cháy hồng hồng trên ngọn lửa
Nhớ chiều qua trên những cánh nương
Chiều treo chon von bờ dốc đá
Hú tiều gọi nhau ngoài đầu non
Ai hay chúng mình thành vượn khỉ
Nhớ từng chiều thiếu trà đói cơm
Bạn bè mang cho ta khoai sắn
Mùa này có thêm nhãn và bồng
Đem bày hết một manh chiếu rách
Ăn đi uống đi thở mùi hương
Cúi đầu cảm tạ ơn trời đất
Bây giờ mới hiểu lẽ diệt sinh
Tiếng trẻ oe oe trong rạ ướt
Bây giờ mới thấy được buồn vui
Như lửa cháy truyền trên củi bếp...
Nguyễn Xuân Thiệp
Kỳ
sau
TRÀ
BỤI VÀ TRÀ VỈA HE, GỐC CÂY