PHÙNG
CUNG,
TRONG CHIỀU HOANG THỔ
Mùa thu nói chuyện thi ca.
Thiết tưởng không gì hợp bằng. Và hôm nay, trong tiết trời lạnh xám của mùa
thu, Nguyễn tôi muốn nói về thơ Phùng Cung. Tại sao lại thơ Phùng Cung? Tại sao
không đọc Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư,
Chanson d'Automne của Paul Verlaine
hay Thu Hứng của Đỗ Phủ? Vâng, tại
sao lại thơ Phùng Cung mà không là thơ một người nào khác? Xin thưa: Chỉ bởi
tại mùa thu, với mưa gió sụt sùi ngoài kia, và những con mắt bão bay lượn ở đâu
đó ngoài khơi Louisiana, Texas, Florida, cùng với nỗi cơ hàn buốt tới từng lóng
xương dưới mái tranh quê nhà. Vả lại, cái tạng của mình nó hợp với những gì u
uất, nửa âm nửa dương -mà thơ Phùng Cung nổi bật lên sắc thái đó.
Phùng Cung nổi tiếng từ thời “Nhân Văn Giai
Phẩm” qua truyện ngắn Con Ngựa Già Của
Chúa Trịnh, đăng trên Nhân Văn số 4 năm 1956. Cũng vì truyện ngắn này mà
ông bị đày đọa suốt mấy chục năm, khốn cùng tuyệt vọng cho tới cuối đời, cho
tới khi nhắm mắt xuôi tay. Theo nhận định của nhiều người, những truyện ngắn về
sau này của Phùng Cung cũng không kém đặc sắc; ngoài ra ông còn làm nhiều thơ.
Báo Khởi Hành những năm trước đây đã đăng thơ và truyện của Phùng Cung, tiếp
theo, tạp chí Gió Đông phát hành ở Bonn, Đức quốc, trong số 2 năm 1997, cũng
đăng một loạt thơ của Phùng Cung, trích từ tập Xem Đêm, những bài thơ mà theo nhà thơ Đỗ Quang Nghĩa cho biết,
chưa từng xuất hiện trên sách báo nào trước đó.
Bài viết về thơ Phùng Cung sau đây, là căn
cứ vào tài liệu của báo Khởi Hành và tạp chí Gió Đông thời ấy. Nguyễn xin gởi
tới nhà thơ Viên Linh và nhà thơ Đỗ Quang Nghĩa lời cảm ơn chân thành.
Trước hết, để có thể cảm nhận không khí của
thơ Phùng Cung trong tập thơ Xem Đêm,
chúng ta hãy đọc bài Nén Nhang sau
đây:
Phỉnh phờ đê tiện
Bã bẫy tù đày
Máu chảy đầu rơi ngày tháng
Ngót thế kỷ bạo quyền
Không dập tắt nổi
Nén nhang
Qua bài thơ ngắn này, điều đầu tiên chúng
ta nắm bắt được, và được xem là nét chung nổi bật trong thơ Phùng Cung, đó là
tính chất phản kháng. Cũng như nhà thơ cùng thời, cùng cảnh ngộ, và là bạn thân
của ông -thi sĩ Nguyễn Chí Thiện- Phùng Cung làm thơ là để nói lên sự phẫn uất
trước một chế độ xảo quyệt, bất nhân, đã chà đạp lên số phận của mình và dân
tộc. Thơ của hai ông chính là da thịt, là máu huyết, xương tủy của cuộc
đời. Nó bật lên thành tiếng kêu bi thống
làm chảy máu bầu trời. Chỉ gồm trong 25 từ thôi, bài Nén Nhang là cả một bản cáo trạng lên án chế độ Cộng Sản: Đó là một
chế độ phỉnh gạt, lừa dối con người. Nọ đánh bã, đặt bẫy (coi con người như con
thú), giam cầm và đày đọa con người tới chết. Nó gây ra cảnh máu chảy đầu rơi
suốt bao nhiêu năm. Thế nhưng, xin hãy nắm tay nhau tin rằng, cái chế độ tàn
bạo phi nhân ấy không dập tắt được đốm lửa tâm linh từng cháy trong tim ta,
trong trái tim dân tộc.
Ôi, thơ Phùng Cung đau quá, phẫn uất quá, và
thực quá. Nó hầu như không còn có chỗ cho mơ mộng nữa.
Ta hãy nghe những câu sau đây của Phùng
Cung vẽ lên hình ảnh người vợ của mình:
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này
Vắt tận trong xương
Thật là tội nghiệp, không phải chỉ “quanh
năm buôn bán ở mom song” như bà vợ Tú Xương. Hay những câu viết về người phụ nữ
luống tuổi, phải về hưu non, sống cơ hàn:
Tóc bạc - vào - mùa
Răng hơi bị đuối
Trệu trạo trái sung
Ruột tím - cơ hàn
Nghe như từ trong xương, từ trong ruột,
tiếng kêu đau đớn bật lên. Và đây hình ảnh người xưa, chẳng còn nét thơ mộng
nào nữa:
Lâu lắm gặp em
Em chỉ khóc quay đi
Bước - héo
Áo - gầy
Gió - va - nón cũ
Nguyễn Hữu Đang lúc sinh thời, đọc Xem Đêm,
nhận định thơ Phùng Cung có những nét đẹp của nông thôn cũ (chưa có
cơ khí hóa, điện khí hóa, tập thể hóa),
nơi còn mang vẻ thanh bình, thuần phác. Nhận xét này, theo thiển nghĩ, chưa
được sát lắm. Đồng ý rằng đây là những nét tiêu biểu của đồng quê miền châu thổ
sông Hồng, với cỏ cây, sinh vật, nắng mưa thời tiết đặc trưng. Nhưng điều gọi
là “vẻ thanh bình thuần phác” e rằng không có, mà bao trùm trên đó là cái bóng
của chế độ đè lên số phận của từng con người, cho đến chim chóc, bờ cây bụi cỏ.
Cái không khí u uất, buồn bã, đầy hồn âm trong thơ Phùng Cung ta đã từng gặp
trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du, nhưng ở đây nó đậm đặc hơn,
đau đớn hơn, bám vào da thịt ta tê thiếp.
Hãy đọc Chiều Hoang Thổ của Phùng Cung. Có chết trận, có bước oan dừng gấp
chiều hoang địa, mà mỗi cọng cỏ là một cáo trạng về dã tâm của một loại người:
Ngàn dặm quê xa
Hoa chua me đất
Nhắn vàng nắng quái
Ngơ ngác hương bay lạc
lối
Đỉnh núi máu phun
Vầng dương hấp hối
Một vùng chó sủa
Thừa cơ bôi nhọ không
gian
Và đây là một vài nét, có thể nói được là
của cảnh sắc thôn ổ như trong phong dao không?
Quê xanh ơi!
Ao bèo rực lửa
Nát vai phong dao
Gánh đá Đông Triều
... Đường thiên lý gió
khua
Tiếng sáo diều tự vẫn
Giữa bến đò - sông cạn
Hãy xem hình ảnh của kiếp người xiêu lạc,
những con ma đói đi trong bóng chiều hoang:
Cửa liếp nối xa xăm
Người đi từ dạo đói
Chiều ghé sân hoang
Cảnh trăng lên trên bãi trống mồ hoang mả
dọc, đọc thấy rợn người:
Lạnh nhịp sương rơi
Chiều - gạo - đỏ
Dế gào chân mộ
Trăng lên...
Và những cô hồn lang thang không hương
lửa:
Gió nã từng cơn
Bùa trấn trạch
Nấp trong giấy bản
Bến đò - quán chợ - ngã
ba
Vật vã mùi cháo thí đêm hè
Còn nhiều câu nhiều đoạn nữa với những
hình ảnh của một miền quê dưới chiều hoang thổ hay trong sương xám, mưa bay,
như trong tranh mộc bản vẽ cảnh sống không phải ở dương gian này. Từ đó, trong
thơ Phùng Cung, ẩn hiện nhiều nét tâm linh, ta đã đọc thấy nó trong những bài
như Nén Nhang, Chiều Hoang Thổ, Cháo
Thí... và bàng bạc trong một số bài khác. Chính nhờ những xúc cảm tâm linh,
những xúc động ẩn sâu sau bóng chữ, mà thơ Phùng Cung có một giá trị đặc biệt
trong thời gian.
Để gợi lên những hình ảnh, những cảnh sắc
vừa nói, Phùng Cung sử dụng một ngôn ngữ thuần chất của miền quê đất Bắc. Ngôn
ngữ đó rất sắc nét, rất gợi hình, tạo nên một hiệu quả đặc biệt, một bầu khí
đậm đặc cho thơ. Phùng Cung thường rất kiệm lời, do đó đọc thơ ông ta cần chậm
rãi, soi dọi vào đó ánh sáng tri thức và cả tia nhìn thấu thị, để cảm nhận
những tầng sâu thẳm nằm dưới ngôn từ. Cũng bởi quá kiệm lời, thơ Phùng Cung
nhiều chỗ lỏng chỏng, khổ độc. Tuy nhiên, lạ thay, tính chất này tạo nên nét
độc đáo của thơ ông khiến nó lấp lánh những vẻ đẹp hiếm quý, ít thấy trong thơ
bây giờ.
Cũng chính nhờ cái tâm nhân hậu bao la của
ông, nhờ những nhận xét tinh tế, những hiện thực đã được lọc qua rung động nghệ
thuật, nên thơ Phùng Cung được đón nhận mà không cần một thế lực chính trị nào
nâng đỡ.
Mùa thu tới rồi. Trong khí lạnh âm âm, lá
chết đầu cành, đọc thơ Phùng Cung, tìm đâu một bếp lửa ấm cho qua nỗi cơ hàn. Ôi,
thơ và đất trời buổi nay đã hòa làm một vậy.
Nguyễn Xuân Thiệp