PHAN NI TẤN
Hồ Biểu Chánh và tiếng Phật
Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1884–1958)
Hồi nhỏ tới giờ tôi vẫn ưa đọc sách,
đọc đủ các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, khoa học dã tưởng,
dịch thuật… Về sau, nghiền ngẫm những tác phẩm của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc,
Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường, Vương Hồng Sễnh, đặc biệt là nhà văn Hồ Biểu
Chánh, tôi như tìm về các ngõ ngách, ruộng đồng, kinh rạch, sông nước miền Tây
quê nội tôi.
Đọc Hồ Biểu Chánh để thấy một tâm
hồn mộc mạc, đơn thuần như những cuộc đất khẩn hoang với những con lạch muỗi
mồng, âm u gợi lên từng địa danh xa vời. Hồ Biểu Chánh sở trường về văn xuôi ẩn
chứa một triết lý nhân sinh góp phần bồi đắp nền văn học miền Nam qua hàng trăm
tác phẩm giá trị. Người đọc tìm đến Hồ Biểu Chánh bởi nhân cách sống với phong
độ nho gia đạm bạc và những trang viết giản dị, trong sáng, lấy bối cảnh miền
Nam làm đề tài với những cảnh đời phức tạp, những thành kiến hủ bại của gia đình
xã hội thời phong kiến. Phần lớn ông viết về đời sống phong phú của những người
dân cần cù lao động làm nổi bậc truyền thống dũng cảm, sức chịu đựng, lòng
nghĩa hiệp và tinh thần vượt qua mọi gian lao thử thách vào giai đoạn lịch sử
dưới thời Pháp thuộc.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Đặc tính trong cách hành văn của Hồ Biểu Chánh là luôn luôn nhấn mạnh vào từng tiếng địa phương, từng chữ đơn sơ, từng nghĩa mộc mạc của ngôn ngữ miền đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi câu truyện của Hồ Biểu Chánh là một bức khắc họa có chiều sâu với những hình thể và màu sắc khác biệt. Nói đến Hồ Biểu Chánh là nói đến dòng thời gian xa thẳm, là tìm về miền ký ức mờ sương. Cho nên đọc Hồ Biểu Chánh, ta có cảm tưởng như đi ngược về dĩ vãng để tha thiết tìm lại hồn đời của từng nếp sống xa xưa.
Hồ Biểu Chánh viết văn giản dị như
nói chuyện. Ông say sưa kể chuyện với cả tâm tình. Những câu chuyện về đồng
áng, kinh rạch, sông ngòi, đất đai, nhà cửa…, về bà Hội đồng, ông Hương cả,
thầy Tham bái, vị Cai tổng, Quan tham biện cho tới người ăn kẻ ở quê mùa, chất
phác đều toát ra cái thần hồn thần tính của họ… Tất cả những cảnh đời nói trên
đều được Hồ Biểu Chánh làm sống lại trong văn chương tả chân, phản ánh đúng lề
lối sinh hoạt của người dân miền sông nước Cửu Long trong giai đoạn thực dân
hóa.
Nhớ mùa hè năm 1969, tôi và một
người bạn cùng quê đi Honda ngao du về miền Lục tỉnh Nam kỳ. Cuộc hành trình từ
Sài Gòn qua Nhà Bè tới Cần Đước, theo những con đường lồi lõm, sỏi đá và bụi,
băng qua những thửa ruộng, những bờ đê ghé về quê nội tôi là huyện Cần
Giuộc; thuở ấy làng quê chỉ có những dẫy nhà tranh lụp xụp với con đường đất
chạy xuyên qua đầm lau sậy âm u. Từ Cần Giuộc qua cầu Rạch Kiến cặp theo dòng
sông Soài Rạp tới cửa Cần Giờ, rồi từ đó xuôi theo hướng Đông ghé vào chợ Dinh,
Gò Công nhắm chút rượu chuối với cá khô đồng.
Ban đêm ngủ trong nhà người bà con
nghèo khó mà tốt bụng của anh bạn đồng hành nghe tiếng vạc kêu sương, nghe giun
dế nỉ non, nghe tiếng heo ụt ịt đòi ăn sau hè làm tôi bồi hồi nhớ tới những câu
chuyện tiểu thuyết thời sự xa xưa của nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh.
Đêm hôm đó, nằm trên chiếc chõng tre
ọp ẹp, tôi ngắm ánh trăng lặng lẽ luồn qua liếp cửa chảy xuống đọng thành những
vũng sáng trên nền đất mà nhớ tới người. Tôi mơ hồ tưởng chừng như ông vẫn còn
ở đâu đó trên mảnh đất Gò Công hiền hòa này. Hồ Biểu Chánh sanh trưởng tại làng
Bình Thành, tỉnh Gò Công, nơi xưa kia là vùng đồi núi có nhiều chim công. Ông
sinh ra để sống và viết. Lúc mất đi, ông để lại cho đời những áng văn chương
bất hủ, góp phần bồi đắp cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú.
Trong hàng trăm tác phẩm của nhà văn
Hồ Biểu Chánh, cuốn tiểu thuyết Tại Tôi, khi đọc tôi cảm thấy tự đáy sâu
lòng mình thường dâng lên từng đợt sóng u hoài.
Tại Tôi có những bối cảnh, những diễn biến
cũng như những nhân vật đầy bi thảm. “Thằng Ba”, tức Lý Như Thạch, con thứ của
bà Cả Kim và cô con dâu tên Nhung là những nạn nhân của chế độ gia đình thuở
xưa. Sinh ra dưới thời phong kiến, Như Thạch chịu sự giáo huấn nghiêm khắc của
bà mẹ đồng thời hấp thụ nền văn học Tây phương. Lý Như Thạch đi học xa nhà, cảm
nhiễm phong hóa Âu Tây, cưới vợ mà không thưa với bà Cả là trái với gia pháp
nên rốt cuộc cả cậu Thạch lẫn cô dâu đều bị bà Cả dứt tình đuổi ra khỏi nhà.
Đoạn thê thảm nhất trong tác phẩm Tại
Tôi của Hồ Biểu Chánh là, tuy hai người trôi giạt về chốn xa xăm, thương
yêu, đùm bọc nhau trong hoạn nạn, chịu đựng nỗi cơ cực, bần hàn, nhưng “họa vô
đơn chi”. Lý Như Thạch đã hỏng về phương tộc, người bạn đường mà anh yêu quí
hết lòng hết dạ, trời xui đất khiến lại bị bịnh tim mà đứt gánh giữa đường. Cô
Nhung chết đi để lại người chồng bất đắc chí và “nhánh lá nhà họ Lý” là con
Thanh Nguyên còn thơ dại. Vậy mà trời nào chịu buông tha, vẫn bắt số kiếp bi
đát của Lý Như Thạch, trong mình mang sẵn bịnh lao, không có tiền chạy chữa
thuốc than; cuộc sống quá đày ải lại gặp sự buồn rầu dồn dập, thân thể gầy mòn
nên lần hồi ngắc ngoải lìa đời. Không có gì bất hạnh cho bằng con còn nhỏ mà
phải trải qua nỗi đau mất cả mẹ lẫn cha.
Cái chết và sự sống qua những câu
văn thật bình dị và vô cùng cảm động của Hồ Biểu Chánh khiến tâm hồn người đọc
cũng theo ông nghiêng xuống nỗi đau của cuộc đời. Nhưng người chết đã đành,
người sống thì sao? May mắn thay, trước khi chết Như Thạch đã để lại một tờ di
ngôn cho người bạn chí cốt tên Tự Cường và nhờ bạn nuôi dưỡng giùm đứa con vô
gia đình, vô thân tộc. Nhờ vậy, Thanh Nguyên lớn lên trong sự yêu thương hết
lòng của người dưỡng phụ, tuy không phải là cha đẻ nhưng tình nghĩa đã gần như
một bổn phận thiêng liêng đối với ông.
Tác phẩm Tại Tôi của Hồ Biểu
Chánh là tiếng thở dài não nuột trước sự bạc bẽo của nhân tình thế thái. Vì lẽ
đó, ở cuối chương tác gỉả đã ôn tồn đưa triết lý Phật giáo vào cốt truyện như
muốn khơi lại tánh bổn thiện của những thói đời hệ lụy. Ngọn lửa từ bi là ánh
sáng soi đường dẫn lối cho sinh linh thành khẩn chắp tay hướng Phật. Nhưng vì
gia tài đồ sộ của dòng họ Lý đã che mờ lý trí của Lý Thị Phụng; con đầu lòng
của bà Cả Kim, tự cô chọn vị trí đứng ngoài bóng mát của hạnh từ bi nên y thị
không có duyên với nhà Phật, không hề nghe được tiếng Phật. Vì thiếu đức tin
nên trong truyện cô Phụng đành đoạn giấu nhẹm lá thư cầu cứu của em mình đang
trong cơn thập tử nhất sinh từ xa gởi về, không cho bà Cả hay. Giấu nhẹm thư
tuyệt mệnh của em mình để làm gì, nếu không phải là lòng tham không đáy muốn
chiếm trọn gia tài đồ sộ kia?
Sự kiện chua xót này được thể hiện
bằng lời trách móc của thầy Hội đồng nhắm vào vợ chồng cô Phụng thật là đáng.
“Phụng, thiệt rõ ràng vợ chồng mầy
hiệp nhau mà giết em mầỵ Ngày thằng Thạch dắt vợ nó về, chị Cả giận đuổi nó, vợ
chồng mầy không có được một lời can gián. Khi nó gần chết, nó viết thư như vầy,
mà vợ chồng mầy giấu biệt không cho chị Cả hay. Bây ăn ở như vầy thì khốn nạn
quá. Tao hiểu hết. Bây muốn cho thằng Thạch chết mà lại tuyệt tộc nữa đặng bây
muốn ăn gia tài cho trọn. Không được đâu, thái độ của bây như vậy trời không
cho bây hưởng trọn giàu sang đâu…”
Nhừng mà trời Phật có bỏ ai dâu,
chẳng qua người xấu gieo nhân xấu thì gặt quả xấu, đúng như nhà Phật có câu
gieo nhân gặp quả, vậy thôi. Đó là sự công bằng, cũng là chuyện thường hằng của
nhân thế.
Và rồi việc gì tới phải tới. Từ ngày
vợ chồng Lý Như Thạch chết đi, con Thanh Nguyên, cháu nội bà Cả Kim lớn lên
biết chuyện, không chịu nhận cội nguồn; còn thằng Hữu Nhơn, con của vợ chồng cô
Phụng bạc nghĩa kia lại mắc phải chứng dở khùng dở điên. Cái cơ ngơi to lớn của
bà Cả lúc nào cũng tràn đầy ánh nắng, sau cuộc tang thương đã trở nên lạnh lẽo
khác thường. Cái gì làm cho ngôi nhà kia âm u, và thân tộc kia trở nên buồn
bã? Cuộc bể dâu vỗ từng cơn sóng dữ vào lòng nhân thế là như thế. Cũng là
chuyện thường tình.
Ta hãy nghe Hồ Biểu Chánh kết thúc
câu chuyện đầy chua chát này:
Ông cai tổng Quyền lắc đầu rồi cười
gằn: “Rõ ràng hễ làm dữ thì gặp dữ”.
Còn bà Cả Kim ngồi im lìm, mắt ngó
sững ra ngoài sân một hồi lâu, bà thở một hơi dài thiệt dài rồi nói: “Tại tôi
hết thảy!”.
Nhìn lại suốt quãng đời cầm bút của
nhà văn lão thành Hồ Biểu Chánh, vì sự thôi thúc của bản năng và nỗi dằn vặt
nội tâm khiến cho cuộc sống cổ sơ và các tác phẩm văn chương của ông đều toát
ra vẻ hiền hòa, chân thực không những dành riêng cho mình mà con dành cho những
con người miền Nam quê mùa, chất phác.
Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà
văn lớn của miền Nam nước Việt nói chung và của miền đồng bằng sông Cửu Long
nói riêng.
Phan Ni Tấn