Hồ
Lăk, Ban Mê Thuột – Nguồn: baomoi.com
Ban Mê Thuột không phải chỉ
để sống hay để nhớ. Ban Mê Thuột với nắng gắt, mưa lầy, ngửi thấy mùi vị của đất,
của cỏ cây và núi rừng. Ban Mê Thuột của những cơn bụi đỏ và huyền thoại, của chiến
tranh và hiện đại. Nhìn chung, Ban Mê Thuột là nơi khi ngươì ta đi xa, dù ít
nhiều kỷ niệm cũng ray rứt nhớ về. Riêng tôi khi nhớ núi rừng thỉnh thoảng tôi lại
nhớ tới những ngưòi thợ săn của vị vua cuối cùng của 13 triều nhà Nguyễn: vua Bảo
Đại.
Từ trước thế kỷ 19, thị trấn
Ban Mê Thuột trên cao nguyên Daklak thuộc lãnh thổ Việt Nam. Nhưng mãi đến năm
1923, Ban Mê Thuột mới được thành lập dưới quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Thời
đó Ban Mê Thuột là chốn ma thiêng nước độc nên dân cư còn thưa thớt, đa số là đồng
bào Thượng sống trong các buôn làng xa xăm.
Khoảng giữa thập niên
1950, ở cây số 5 ngay ngã ba quốc lộ 14 đi Pleiku và quốc lộ 21đi Ninh Hòa vẫn
còn rừng, chưa có bến xe đò. Ban ngày hươu nai chạy ngờ ngờ; nhất là công rừng
đậu từng bầy trên cây..
Mùa hè là mùa săn bắn. Thợ
săn ở Ban Mê Thuột không nhiều cũng không ít. Nhưng nhà nghề vẫn là ông Ba Lô, là
tay thiện xạ khét tiếng.
Đi săn, thợ săn thường dùng
súng mousqueton, một loại súng trường ngắn như carbine. Xe thời đó, ngoài xe
Land Rover, còn có xe Dodge Quatre của người Pháp tiện cho việc chuyên chở những
vật nặng, cồng kềnh. Hồi nhỏ, con nít tụi tôi thường gọi chiếc Dodge Quatre là
"xe cách cách" (quatre-quatre), một loại xe tải nhẹ 4 bánh, giàn sắc-si
(châssis) thấp, thùng xe hơi vuông vức, có mui phủ bằng tấm bạt nhà binh.
Rừng Ban Mê Thuột có những
khu vực săn bắn lý tưởng như buôn Dur, buôn Đông (Bandon), Draysap, Dak Mil nằm
sâu trong những cánh rừng rậm rạp ở phía Tây Nam quốc lộ 14 đi Bù Đăng, Bù Đốp.
Cũng trên quốc lộ 14 ngược về hướng Bắc Pleiku, khu vực Bra thuộc Buôn Hô cũng
có nhiều dã thú. Rừng Lạc Thiện phía quốc lộ 21 kép đi Lak, ngoài thú dữ, còn có
rừng mai vào những ngày Tết nở vàng cả núi rừng.
Đó là giang sơn của những
động vật hoang dã. Từ chim chóc, hươu, nai, chồn, cáo, khỉ, vượn, nhím, kỳ đà
cho tới mãng xà, gấu, voi rừng, trâu rừng, lợn lòi, tê giác, cọp, beo...
Ngoài ra, Dốc Láng, ở phía
Đông Bắc quận Khánh Dương cũng có nhiều thú và... ma. Nhiều thợ săn kể lại mỗi
lần xe vừa quẹo cua đổ xuống Dốc Láng họ đều thấy lờ mờ một cô gái mặc áo voan
trắng bết đất, tóc dài chấm gót đứng bên lề đường đón xe. Dĩ nhiên khi xe tới gần
thì cô gái ma biến mất.
Động vật thường hoạt động vào
ban đêm nên hàng tuần, trời vừa chạng vạng tối là nhóm thợ săn với hai, ba xe
Dodge lên đường đi săn suốt đêm tới tờ mờ sáng mới về. Có khi họ săn ba bốn ngày.
Không bao giờ họ bắn nai con hoặc nai đang lớn. Chiến lợi phẩm là những con hươu
khổng lồ hoặc nai chà cao 1.20m tới 1.60m, nặng chừng 150kg đến 200kg. Ve hút máu
trong kẽ chân nai, con nào con nấy to bằng đầu ngón tay cái, lớp da chai nhầy,
trắng ởn.
Mỗi lần đi săn về, ông Ba
Lô, trưởng toán chia đều phần thịt cho bạn đồng hành nhưng ông ưu tiên lấy sừng. Nếu hạ nhầm nai có
chửa thì mổ bụng tại chỗ lấy thai nai con về ngâm rượu hàm nàm. Ai đã từng ghé
qua nhà ông Ba trên đường Tôn Thất Thuyết sẽ ngợp vì thấy trong phòng khách nhà
ông treo toàn gạc nai đủ loại, đủ cỡ như hươu, nai chà, sơn dương. Đây là bộ sưu
tập nghệ thuật về bộ sừng vĩ đại, hiếm có của người thợ săn nổi tiếng nhất vùng,
đặc biệt là sừng trâu rừng, tức con Min, là một loại mãnh thú to lớn, dềnh dàng,
đen xì, vô cùng dũng mãnh. Con Min nặng cả tấn, cặp sừng, bề ngang dài cả sải
tay, rắn chắc, bóng lưỡng, nhọn hoắc, là thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm. Gặp cọp,
con Min chỉ khịt một tiếng là cọp cong đưôi chạy mất đất.
Nhớ
có lần ông Ba Lô săn được một con cọp ngoại khổ, đuôi dài cả thước, nanh, vuốt
dài ngoằn, nhọn hoắc. Con nít tụi tôi nghịch ngợm nhổ râu cọp chơi bị bà nội rầy.
Thì ra người Thượng dùng râu cọp trộn với một loại lá rừng đựng trong hũ lâu ngày
biến thành một loài sâu rọm lông lá xanh lè. Họ lấy sâu giã nhuyễn dùng làm thuốc
độc tẩm trên đầu mũi tên để săn thú rừng.
Vị vua cuối cùng của triều
nhà Nguyễn là vua Bảo Đại nổi tiếng là ông vua tân thời, phóng khoáng và phong
độ. Được biết nhà vua rất hâm mộ các môn thể thao quí phái, thời thượng như bơi
thuyền, cưỡi ngựa, đánh goft, chơi tennis. Nhưng có thể nói săn bắn là môn
"thể thao đường rừng" ông ưa chuộng nhất. Mỗi lần đi kinh lý trên Ban
Mê Thuột, vua thường tổ chức đi săn. Nhớ lại tháng 5/1950, nhân dịp Bảo Đại lên
Daklak thăm viếng đồng bào Thượng Êđê, vua sai cận thần triệu ông Ba Lô đi săn
cọp với vua. Thời trước, ông Ama Kông, vua săn voi cũng từng đi săn với Bảo Đại.
Đi săn với vua chúa là niềm vinh dự hiếm có.
Ông
Ba Lô kể lại: "Đi săn, vua Bảo Đại chỉ thích săn cọp, beo để lấy da bọc bộ
salon. Ngoài salon, còn có một bộ da cọp nguyên vẹn được thuộc rất khéo léo và
công phu đem trải trên sàn phòng khách biệt điện (bungalow) của Bảo Đại".
Về
kinh nghiệm săn bắn, ông Ba nói:"Săn ban đêm rọi đèn gặp cặp mắt đỏ chạch thì
biết đó là nai; còn đụng phải cặp mắt sáng quắc, xanh biếc, một thứ màu lạnh buốt,
rợn óc, lia qua lia lại thì phải hết sức thận trọng. vì đó là mắt cọp".
Đoạn
đời đi săn của ông Ba Lô, thú rừng bị bắn hạ không biết cơ man nào mà đếm, nhưng đáng kể nhất là ông đã hạ3 con cọp rằn,
2 con beo đốm, 2 con beo gấm và 1 con chim đại bàng.
Ngoài ông Ba Lô, còn có các
thợ săn khác như ông Lucien Rostan, tonton Sang, cậu Minh, chú Mười Kèn, chú Năm
Bé, chú Đinh, chú Hiếu, chú Hích, chú Sĩ...
Nghề săn bắn cũng có nhiều
thứ cấm kỵ và lắm sự rủi ro. Có người trong nhóm chú Năm Bé đi săn bị sụp lỗ chân
trâu, súng cướp cò, đạn xuyên qua cổ lên đầu, phọt óc chết. Đoàn thợ săn của cậu
Minh đi săn voi, năm người đi chung một chiếc xe cán phải mìn, không ai toàn mạng.
Dam Rông ở phía Đông quận
Lạc Thiện rừng rậm um tùm có nhiều vách núi cheo leo. Trời vừa sụp tối, nhóm của
cậu Minh vừa đổ bộ vào cánh rừng đã đụng phải con voi một ngà, hiếm khi gặp được.
Không có gì hồi hộp hơn một cuộc săn bắn mạo hiểm. Thấy con voi quá lớn, nặng gần
chục tấn, ngà dài cả thước, mọi người đều nín thở. Cậu Minh bình tĩnh nâng súng
nhắm ngay giữa trán, voi rừng dù mạnh cách mấy chỉ cần một phát đạn cũng gục
ngay tại chỗ. Ngà đem về chưng trong phòng khách nhà ông Lucien Rostan. Riêng ống
chân voi lớn đến nỗi người lớn có thể ngồi lọt thỏm trong đó..
Thợ săn đại kỵ giết voi một
ngà. Kinh nghiệm cho biết sớm muộn gì họ cũng gặp phải thảm cảnh. Đoàn thợ săn
của cậu Minh cán phải mìn là một điển hình.
Dù sao, những người thợ săn khét tiếng một thời
ở Ban Mê Thuột từ thập niên 1940 đến 1975, có thể nói họ như một loại huyền thoại, một biểu
tượng sống động của thị trấn miền cao. Nhưng nhìn lại, họ vẫn là những thợ săn
vô danh, mãi mãi vô danh, dù có người đã từng đi săn với vua Bảo Đại. Thật ra,
trong sử sách, không ai biết mà cũng không cần thiết nhắc đến tên tuổi của họ,
trừ vua săn voi Ama Kông, dân tộc M'Nông, một thợ săn ngoại hạng của núi rừng đại
ngàn vào thế kỷ trước.
Vậy đó. Săn bắn tài tình
như vậy. Thiện xạ như vậy. Nức tiếng như vậy.Vậy mà một sớm một chiều ông Ba Lô
bất ngờ buông súng để bước vào cửa Phật. Ông quy y tam bảo, trở thành một vị cư
sĩ ăn chay, niệm Phật, tụng kinh rất thuần thành. Người ta nói tiếng chuông mõ
là tiếng nói của đức Phật, đánh thức hạnh từ bi vốn có trong mỗi con người. Có
lẽ hàng đêm nhờ tiếng tụng kinh đều đặn của người mẹ già, lâu dần như một phép
lạ thấm vào lòng người thợ săn ác liệt này.
Nhìn ông ngồi thẳng lưng
trong chiếc áo tràng lam trước bàn thờ Phật thành kính gõ mõ tụng kinh, không
ai ngờ trong quá khứ ông Ba Lô từng là một tay thợ săn thiện nghệ.
Ông Ba Lô còn có một năng
khiếu đặc biệt nữa mà ít người biết. Ông là một nghệ sĩ kỳ tài, kéo vĩ cầm mùi
tận mạng. Mỗi độ trăng tròn, ông thường đem vĩ cầm ra kéo những bản vọng cổ mùi
rệu.
Dưới ánh trăng rằm, hình
bóng và cây vĩ cầm của ông nổi bật như một bức tranh sống động. Cái đẹp của bức
tranh trong thời khắc đó nổi lên âm thanh của điệu Nam Xuân, Nam Ai mùi mẫn, tài
tình. Mấy ngón tay ông thuần thục như múa lướt trên bốn dây đàn. Không gian như
say như đắm trong tiếng nhạc Ánh trăng vằng
vặc trên vòm trời nạm ngọc như chìm trong yên tĩnh. Những đêm trăng lắng nghe
tiếng đàn mùi rệu vang lên trong làng xóm tôi có cảm tưởng rằng âm nhạc có khả
năng lấn át cả tiếng súng săn năm nào.
Tôi có thử đàn vài lần nhưng
lần nào cũng kéo ra những tiếng ò è ọt ẹt như nghẹt mũi, như ai bóp cổ, chẳng
ra hồn. Vĩ cầm không có phím như dương cầm hay tây ban cầm nên người đàn phải
nhớ chính xác vị trí các nốt trên cần đàn. Vĩ cầm là loại nhạc cụ vừa bình dân
vùa quí phái, tuy nhỏ nhắn, gọn nhẹ nhưng âm thanh thì cao vút từng mây. Tôi rất
ngưỡng mộ người chế ra loại nhạc cụ này cũng như rất phục tài chơi đàn của ông Ba Lô. Cuộc đời khá
ngắn ngủi nhưng kỳ lạ của ông như được kết hợp bởi bốn loại hình: quân nhân, thợ
săn, nghệ sĩ và nhà tu.
Nhưng rồi cái gì cũng chỉ
một thời, rằng thế gian này mọi vật đều vô thường. Những tiếng súng ác liệt của
những người thợ săn năm xưa cũng đã chìm trong tịch lặng khi tất cả đã đi vào
thiên cổ. Ông Ba Lô cũng vậy. Ông mất năm 1983 tại Ban Mê Thuột.
Ông Ba Lô là ba của tôi.
Phan Ni Tấn