Đêm trăng trên bãi biển Duồng- Photo by benkhang
Năm
1969 và 1970 tôi dạy học ở
Duồng. Duồng
là một
địa
phương
nhỏ,
nằm
sát biển,
cạnh
quốc
lộ 1,
cách Phan Rí khoảng 10 cây số
về phía
bắc.
Dân địa
phương
sống
bằng
nghề đi
biển
và làm ruộng
muối.
Nước
biển
vùng này rất
mặn,
làm muối
rất
tốt
nên muối ở Duồng
rất
được ưa
chuộng.
Duồng
có một
con đường
chính không lớn
lắm,
hai bên chi chít những dãy nhà hai tầng
bằng
gỗ,
trông giống
những
khu nhà thường thấy trong phim cao bồi
Mỹ.
Duồng
có một
thắng
cảnh
được
nhiều
người
biết
đến:
Gành Son, với những vách đá màu đỏ thẫm
cùng những
hang động
trông rất
đẹp
mắt.
Một
đồng
nghiệp
của
tôi, Thái Văn Thạnh, có nhà ở Duồng,
sắp
xếp
cho tôi một
chỗ
ở
trong nhà anh. Trong căn nhà này, tình cờ tôi lại
gặp
một
người
cũng mê thơ,
mê nhạc:
Nguyễn
Dương
Quang. Nguyễn
Dương
Quang, gốc
Đà Lạt,
là sĩ quan quân đội đang đóng quân ở
gần
đó, và gia đình Thạnh cũng giúp anh có một
chỗ
ăn ở
giống
như
tôi để
anh có nơi
chốn
đi về.
Chúng tôi trở
thành bạn
và có nhiều
kỷ
niệm
ở
Duồng.
Nguyễn
Dương
Quang là mẫu
người
cương
trực,
thẳng
thắn,
nhanh nhẹn,
tháo vác, sống
đàng hoàng, và đặc biệt, chơi
với
bạn
rất
tốt.
Thời
gian này, chiến
tranh vẫn
khốc
liệt,
sống
và chết
nhiều
khi chỉ
cách nhau trong tích tắc. Tâm trạng
chung của
chúng tôi là chán ghét chiến tranh, buồn
bã vì chiến
tranh, và đau khổ vì chiến tranh. Từ
Duồng,
Nguyễn
Dương
Quang đã viết
bài thơ
hay nhất
của
anh, được
nhiều
người
yêu thích, và được giới phê bình văn học
đánh giá cao: ĐÊM CUỐI NĂM VIẾT CHO MÁ.
ĐÊM CUỐI NĂM VIẾT CHO MÁ
Nguyễn
Dương Quang
đêm
nay con ngồi một
nơi
rất
xa má
đếm tuổi con bằng nước mắt má đong
trong đêm thoảng giọng hiền má gọi
con vừa nghe, muốn khóc, rất bâng khuâng
đếm tuổi con bằng nước mắt má đong
trong đêm thoảng giọng hiền má gọi
con vừa nghe, muốn khóc, rất bâng khuâng
ở
làng này không ai đốt pháo
đêm thật buồn như bước đông đi
con còn có ít giờ hưu chiến
biết đâu chừng, thôi, nghĩ làm chi
đêm thật buồn như bước đông đi
con còn có ít giờ hưu chiến
biết đâu chừng, thôi, nghĩ làm chi
mấy
năm nay con không có tết
hình như năm chỉ có ba mùa
con không buồn xuân chê đời lính
buồn xa má như trời mưa
hình như năm chỉ có ba mùa
con không buồn xuân chê đời lính
buồn xa má như trời mưa
từ
xa má con làm con nhiều mẹ
lúc nào cũng vui lúc nào cũng buồn
có kẻ vui luôn, người buồn mãi
mình con của má cười rưng rưng
lúc nào cũng vui lúc nào cũng buồn
có kẻ vui luôn, người buồn mãi
mình con của má cười rưng rưng
con
nghe những dòng sông kể
chuyện
biển xa năm họp mặt một lần
chuyện những xác cầu xác người chìm nổi
chuyện đồng loại như là phù vân
biển xa năm họp mặt một lần
chuyện những xác cầu xác người chìm nổi
chuyện đồng loại như là phù vân
hình
như cây súng con lạ
lắm
sao nó run lên khi đạn lên nòng
tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
một kẻ nằm, kẻ đứng , xót xa không?
sao nó run lên khi đạn lên nòng
tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
một kẻ nằm, kẻ đứng , xót xa không?
trước
mặt
con: những ngọn
đồi
cát máu
đêm thì thầm cùng những nấm xương
ôi, trái tim con mãi tôn thờ má
đã dạy con hai tiếng yêu thương
đêm thì thầm cùng những nấm xương
ôi, trái tim con mãi tôn thờ má
đã dạy con hai tiếng yêu thương
từ
má lòng bàn tay dìu dắt
con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
dòng nước nào xa nguồn mà không đục
sợ một mai con lạc dấu chân mình
con bơ vơ giữa cuộc phù sinh
dòng nước nào xa nguồn mà không đục
sợ một mai con lạc dấu chân mình
thôi,
má ngủ đêm nay ngon giấc
con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà
đạn vòng cầu đừng đi trong đêm tối
lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa
con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà
đạn vòng cầu đừng đi trong đêm tối
lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa
1969
Tuy
là một
làng quê nhưng sinh hoạt ở
đây cũng chẳng
khác gì ở
thành phố,
cũng tiệm
bi-da, cũng quán cà phê đầy đủ. Thú vị
nhất
là những
đêm chúng tôi theo ngư dân địa phương
đi thuyền
ra ngoài biển,
neo thuyền
ngoài đó, lưới cá lên, luộc và cuốn bánh tráng ngay trên
thuyền.
Ngon
tuyệt.
Nếu
là đêm trăng thì lại càng thú vị hơn,
hồn
thơ
tha hồ
mà bát ngát. Người dân ở đây rất
thân thiện,
dễ
gần
gũi và dễ
mến.
Tôi hay la cà ở
các quán cà phê vào sáng sớm, thời điểm
họ
vừa
đi biển
về,
trò chuyện,
học
hỏi
những
kinh nghiệm
sống
của
họ.
Hồi
ấy,
những
cây bút tên tuổi
đều
tập
trung hết
ở
Sài Gòn. Dạng
như
chúng tôi được gọi là những cây bút trẻ
vì trẻ
cả
về
tuổi
đời
lẫn
số
năm cầm
bút. Địa
phương
nào cũng có những
cây bút trẻ
như
vậy,
tuy chưa
quen nhau, nhưng
đều
biết
nhau qua các bài đăng trên báo, và khi có dịp
gặp
nhau thì trở
thành bạn
bè rất
nhanh. Khi đến
một
địa
phương
nào, chúng tôi đều biết trước
dân văn nghệ ở đó gồm
những
ai. Nổi
bật
trong số
những
cây bút ở
Phan Rí thời
ấy
có Nguyễn
Lệ
Tuân, Huỳnh Hữu
Võ, Tô Duy Thạch, Đài Nguyên Vu, Hàn Sa. Còn Từ
Thế
Mộng,
Phạm
Cao Hoàng. Nguyễn Dương Quang là “dân
nhập cư”.
Anh em văn nghệ
Phan Rí có chung một đặc điểm
là chơn
chất,
hiền
lành, cởi
mở,
hào phóng, và anh nào cũng mê thơ. Tôi cũng là dân mê thơ
nhưng
gặp
mấy
sư
phụ
này tôi chỉ
là đệ
tử.
Người
mê thơ
nhất,
bị
thơ
hành nhiều
nhất
là Nguyễn
Lệ
Tuân (đã qua đời). Gặp anh ở
đâu, trong quán cà phệ, ngoài đường…, anh thường
đọc
ngay một
bài thơ.
"Tôi mới làm bài này. Đọc
cho ông nghe". Anh mê thơ
đến
độ
trong một
bài
thơ
anh có ước
nguyện
rằng
mai kia nếu
anh chết,
hãy cho anh tiếp
tục
được
sống
với
thơ
ở
thế
giới
bên kia.
DỰNG MỘT LỀU THƠ
TRÔNG RA CỬA BIỂN
Nguyễn Lệ Tuân
mai
tôi chết xác tan vào lòng đất
xin
hãy cho tôi nắm cát máu quê nghèo
dựng
một
lều
thơ trông ra cửa
biển
để
ngàn năm mãi mãi được quạnh
hiu
1969
Dựng
một
lều
thơ trông ra cửa
biển. Để
ngàn năm mãi mãi được quạnh
hiu.
Ôi, một
tâm hồn
thơ
tuyệt
vời.
Trong
hai bài thơ
trên, cả
Nguyễn
Lệ
Tuân và Nguyễn
Dương
Quang đều
dùng
chữ
“cát
máu”.
Ở
Bình Thuận,
dọc
theo biển
có những
đồi
cát màu đỏ,
do gió thổi
mạnh
dần
dần
tạo
thành. Nhiều
trận
đánh ác liệt từng diễn
ra ở
những
đồi
cát này, nên anh em văn nghệ ở Phan Rí hay dùng chữ
“cát
máu”
như
một
cách diễn
đạt
nỗi
buồn
chiến
tranh. Nguyễn
Bắc
Sơn
cũng từng
có những
câu thơ
về
những
đồi
cát ấy
: “Đêm nằm
ngủ võng trên đồi
cát. Nghe súng rừng xa nồ
cắc
cù. Chợt thấy
trong lòng mình bát ngát. Nỗi
buồn sương
khói của mùa thu” (Mật
khu Lê Hồng Phong, thơ
Nguyễn Bắc
Sơn).
Duồng,
một
thời
biển
mặn,
một
thời
kỷ
niệm
với
Nguyễn
Dương
Quang và bạn
bè Phan Rí. Mùa thu năm 1970, tôi từ giã Duồng
chuyển
về
dạy
học ở
nơi
khác. Sau này, có đôi lần trở lại,
rồi phải
bươn
chải
lo toan cho cuộc
sống
nên đã nhiều
năm chưa
có dịp
quay
về./.
Phạm Cao Hoàng
May 25,
2012
Phạm Cao Hoàng – Thái Văn Thạnh (Duồng, 1970)
DUỒNG, MỘT THỜI BIỂN MẶN
(Ảnh chụp ở Duồng năm 1970)
Từ trái sang phải:
Ngồi: 1.Thái Văn Thạnh 2.Huỳnh Hữu Võ 4.Nguyễn Dương Quang 5.Hàn Sa
Đứng: 1.Nguyễn Lệ Tuân 4.Vũ Đức Sao Biển 6.Tô Duy Thạch 8.Phạm Cao Hoàng
(Ảnh chụp ở Duồng năm 1970)
Từ trái sang phải:
Ngồi: 1.Thái Văn Thạnh 2.Huỳnh Hữu Võ 4.Nguyễn Dương Quang 5.Hàn Sa
Đứng: 1.Nguyễn Lệ Tuân 4.Vũ Đức Sao Biển 6.Tô Duy Thạch 8.Phạm Cao Hoàng