Source: https://maps.googleapis.com
Giống
hầu hết mọi khu vực xanh mát phủ trùm khác của Virginia, lối vào Annandale luôn
đong đầy bóng cây lắc lay lá. Căn nhà tiền chế bằng chất kim loại mỏng, hình
khối chữ nhật ngã màu vàng, lối vào và nền nhà cách ngăn bằng tấm cửa kéo mong
manh, không chênh lệch độ nông sâu, cao thấp. Bằng phẳng từ tiền vào tới hậu.
Mưa đổ oà có thể xoá nhoà biên giới giữa trong ngoài, lấm lem một địa chỉ mông
lung vừa định hình ra bến tạm. Tấm tapis mỡ gà, chiếc ghế nệm nâu có thể kéo ra
làm giường. Cái bàn thờ, đôi ba bức tượng Phật cổ, giá vẽ, những cây cọ cắm tua
tủa ngược đầu trong lon, trong lu, trong hủ. Hai cuốn niên giám điện thoại hơn
ngàn trang đặt chồng lên nhau, thế ghế ngồi khi đối mặt tấm bố rộng. Những tuýp
sơn dầu vặn vẹo, co quắp hình thù. Và tranh, lớn nhỏ treo lên vách hoặc úp mặt
nhau ở một góc nhà, nửa bề bộn nửa ngăn nắp. Nửa ngơi nghỉ nửa tỉnh thức. Nửa
này và nửa kia như tấm thẻ xanh, như chưa vững bền một tựu thành vào quốc tịch.
Thoạt
kỳ thuỷ từ chốn Utah xa ngái, hoạ sĩ Đinh Cường đông tiến và cùng gia đình chọn
Virginia làm chốn dừng chân. Năm nọ, có lẽ 1990, tôi bay từ Montréal sang thăm,
tôi “đạp đất” số 7403 Franklin Road và dường như tôi đã nhìn thấy lại nét vàng
phai căn nhà sau lưng trường Mỹ Thuật ở Huế. Bao năm tháng hao gầy chia cắt,
bao gió chướng cuồng nộ, bao băng giá phủ trùm, rốt cuộc chúng tôi cũng sẽ,
cũng đã bắt buộc phải ngồi kề bên nhau như thứ định luật tự nhiên khó bề giải
thích và chẳng nên cắt nghĩa. Sau cơn mưa trời có sáng chăng?
Khoảng
sân đầy cỏ xanh, một góc vụn nát đá dăm có chiếc Toyota màu đỏ đun dưới bóng
cây. Mùa hè hanh, chút gió hiếm muộn cùng những con sóc luôn dạn dĩ đến vẫy
đuôi, chăm mắt ngó. Bên giá vẽ, người hoạ sĩ luôn thủ sẵn một bao đậu phộng ran
và nếu tôi đừng ngồi bệt ngay ngạch cửa, sóc luôn là những vị khách không mời
của người đang thao tác dựng nên vẻ đẹp vô ngôn. Rất lặng lẽ, sóc an toạ ngay
tầm tay để đón nhận “bữa cơm từ thiện”. Nhiều quá, chúng sẽ thôi ăn, mang ra
sân cỏ để đào bới, thu cất. Điều đó cũng đồng nghĩa là người hoạ sĩ sẽ cầm lấy
cọ, tiếp tục công việc dở dang, thôi bị quấy rầy.
Lý
ra sóc phải hiện diện trong tranh. Tranh câm lặng, sóc im tiếng và người hoạ sĩ
vốn là kẻ kiệm lời. Đoạn đường ngắn, từ trong ra tiếp cận với giao lộ chính đã
có không ít chú sóc bị bánh xe đè nghiến, nát thân. Hoạ sĩ Đinh Cường cẩn thận
cho xe chạy qua, chậm rãi, và thở dài: Tội quá! Có thể đó là một trong những
con đã từng lân la vào nhà nhai rau ráu hạt đậu phộng béo ngậy. Mới hôm qua,
mới hôm kia thôi, giờ đã hoá thân tựa một cái bánh pizza kỳ dị nhiều sốt cà
chua nằm chết dí trên mặt nhựa đường. Ngó thấy, lòng phải hoài nghi về câu nói:
Nhanh như sóc. Nhanh có thể táng mạng. Chậm có thể đi đong. Nhanh hoặc chậm, ừ
cứ đổ thừa tại số kiếp.
Thời
gian đó, Trường Giang, Dạ Châu và Trường Chinh vẫn còn ngồi những năm cuối ở
đại học. Người học trường xa, kẻ học gần và tất cả chừng như vẫn chưa thoát hẳn
bóng dáng của kỷ niệm chốn xưa luôn đè nặng. Năm người lưu trú trong căn nhà
nhỏ, túng quẫn không chỉ ở chân đi. Hoạ sĩ Đinh Cường và tôi ngã lưng trên tấm
tapis nồng nàn mùi sơn dầu, mùi xăng rửa cọ và đêm vẫn dịu dàng lén gửi chút
hương mùi tinh khiết phát ra từ vườn hoa tận tuyệt ngõ tối. Chúng tôi mở cánh
cửa kéo để thổi ra sương ẩm từng đợt khói thuốc của những hàn huyên tâm sự.
Khung cảnh căn nhà 14 Đinh Công Tráng Huế hiện lên chen cài với 31A Nguyễn Đình
Chiểu Tân Định, miên man, trắng đêm cùng thức với cổ tích. Kỷ niệm là con dao
hai lưỡi, một đôi khi. Anh khó bước đi khi lòng hoài nhớ nặng mang bao thân thương
phải chịu bỏ lại. Không, hãy vui lên, trường giang lớp lớp ta đã băng qua, sá
gì. Tôi nhủ thầm. Tôi nhớ lại là bấy giờ, chốn chôn cất tịch lặng kia không hú
vọng hồi còi tàu trầm thiết lẫn khuất và thương hiệu Starbucks dường như chưa
kịp khai sinh để làm nơi nghỉ chân như sau này. Con chim đỏ chốn đây cũng chả
dạn dĩ bằng ở khu rừng thưa vùng Burke. Và hoạ sĩ Đinh Cường năm khi mười hoạ
mới trình làng một bài thơ, viết cẩn trọng, cô đọng, hơi thở sâu. Lời thơ chở
theo nguyên màu trăng cũ. Là tiếng thở dài khó nguôi ngoai. Anh luôn nặng tình
cho bè bạn ở chốn xa. Ở Mỹ nhưng đau đáu những mộng tưởng luôn tìm cớ quay về.
Huế, Đà Lạt, Sài Gòn mãi biến thân thành hình khối, thành sương hoa, thành núi
đồi, thành thiếu nữ, khuấy trộn thành thứ màu sắc riêng biệt có chữ ký Đinh
Cường bảo chứng bên dưới mà bên trên là dằn vặt những cơn mộng la đà cô lại
thành thứ bố cục dễ vỡ tan. Một nỗi nhớ rình rập đâu đó. Một tâm sự mãi cần sự
sẻ chia. Một khoảng trống để lộ giữa bức tranh hoàn chỉnh.
“…ngày cuối năm nằm trên cột đèn
nghe tiếng chim sâu trên lá xanh
tay che mặt buồn tay trên ngực
tim ta đập nhoài cơn giá băng…”
Tôi
cũng yêu hai câu:
“núi còn những mấy nghìn năm
mây bay buồn xuống ngang tầm mắt tôi”.
Lời
thơ như thứ sơn bồi đắp ban đầu lên tấm bố trắng, cọ màu sẽ phủ chồng lên và
như vậy thơ cùng tranh chưa một lần tách biệt. Dung dị, xem tranh Đinh Cường là
đón nhận chút thơ mộng tiềm ẩn đã được đóng khung mà trừu tượng hay tĩnh vật
hay phong cảnh hay nhân vật chỉ là một tên gọi đi sau. Như không gian Huế thì
trầm mặc u uất, như sương mù và hoa dã quỳ đã định phận cho Đà Lạt nét diễm ảo
riêng tây.
Từ
Franklin ra khu Eden chẳng mấy xa, tuy mới chân ướt chân ráo làm thường trú
nhân nhưng do một năng khiếu kỳ lạ, người hoạ sĩ biết có con đường nhỏ tựa
đường chim bay để thu ngắn lộ trình mà ban đầu ta hoài nghi sẽ bị chở đi lạc
trong bát quái trận đồ. Có sao đâu, ông thấy không? Riết phải quen. (Anh Cường
luôn gọi tôi là ông, xưng mình và hay chấm câu bằng ba chữ: Thì bởi vậy.). Ai
quen chứ tôi vẫn thấy lạ. Thời dạy ở trường Nữ Thành Nội hoặc dạy ở Mỹ Thuật
Huế anh chỉ biết chạy chiếc Suzuki 49 phân khối. Thong dong, chậm rãi. Vào Thủ
Đức học ngành Công binh thì biết lái thêm chiếc xe ủi đất luộm thuộm dềnh dàng.
Chỉ nhiêu thôi. Vậy mà bi chừ điều khiển chiếc xe Toyota đời 89 nhuyễn nhừ với
tay lái rất lụa. Lái như với một linh cảm khó sai trật “đường nào cũng về La
Mã”. Lái mà chẳng thèm ngó bản đồ. Cái sự lái kia nôm na là chẳng khoa học, là
nghệ sĩ thì đa phần họ đều lái theo cách đấy. Không mấy lâu xe đã thắng đứng
trước cửa tiệm phở Xe Lửa của anh Nguyễn Thế Toàn chẳng sai trật, luôn sớm
trước những hẹn hò. Người đến từ phương xa, phải vượt biên giới như tôi khi
bước vào không gian ngát nồng hương liệu phở đã bắt gặp ở đó chút thân thuộc
tựa hồ ở Nguyễn Đình Chiểu đi bộ sang Pasteur hoặc Hiền Vương, có nghĩa là mảy
may chẳng phát hiện chút xa lạ. Họ đã đọc truyện tôi viết, họ biết người vợ
thích dấu mặt của hoạ sĩ là chị ruột của tôi và ai nấy đều vỗ vai, bắt tay, dồn
đẩy vào ngồi cái bàn trong góc quán, nơi có những cuốn sách, những phác hoạ
chân dung, bình trà nóng và bộ cờ tướng vừa xoá xong một thành quách của tướng
sĩ tượng ngổn ngang. Ở đó, lần đầu tôi giáp mặt với anh Giang Hữu Tuyên, chủ
nhiệm tờ Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, tên người gắn liền với bài thơ đang dậy sóng:
“Trời Mưa Đi Phát Báo”. Anh hỏi: Bạn có truyện nào cho tôi không? Và móc ngay
tiền túi dành trả nhuận bút trước. Năm tờ hai chục “In God We Trust”. Hoạ sĩ
Đinh Cường nói, chữ dùng rất cá biệt: Bảnh quá vậy ông! Chơi vậy là nhất ông
rồi! Nếu có ai góp ý thì cả bàn sẽ nghe: Thì bởi vậy. Tuần báo Hoa Thịnh Đốn
Việt Báo in khổ to, là nơi vẫn đăng thơ lẫn minh hoạ của Đinh Cường. Sẵn nhắc
tới kỷ niệm ban sơ nọ, tưởng cũng nên ghi lại đây bài thơ thật “bảnh” của anh
Nam bộ Giang Hữu Tuyên:
Trời Mưa Đi Phát Báo
Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi
Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa
Mưa lót ngót đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi
Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thuở trước
Đang về làm ướt trái tim ai.
Một
Triệu Tử Long tân thời, đơn thương độc mã. Vừa chủ nhiệm kiêm chủ bút kiêm thư
ký toà soạn kiêm nhân viên dàn trang kiêm tài xế mang đến nhà in rồi kiêm cả
việc đi phát báo; mà báo của gian đoạn nọ mọi thứ tựu thành đều vất vả thủ
công, đâu có computer, internet nhậm lẹ
như hiện thời. Rất dãi dầu, rất sáng
nắng chiều mưa. Vậy mà người ấy luôn tươi cười, luôn linh hoạt, luôn
xẳng xái. Thì cứ đọc bài thơ kia thì hẳn rõ, tuyệt không để lộ lời thở than,
chẳng oán thân trách phận, nhưng mịt mù ở đó tượng hình thứ nỗi niềm bị vây
khốn, thứ tâm sự dễ làm mềm tim ai. Virginia mùa tôi sang chẳng có mưa bay, tôi
đi dang nắng đó đây cùng anh Đinh Cường để quen thêm những tên tuổi khác: Phó
Ngọc Văn, Lê Thiệp, Ngô Vương Toại… và hai người nữ viết văn cùng thời điểm với
tôi: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Thanh Bình.
Đi
loanh quanh mà không nghe đời mỏi mệt, tôi háo hức theo chân anh đi vào những
cửa hàng nồng mùi đồ cũ tỉ như “The Salvation Army” để tha hồ lùng sục. Khung
tranh có chạm trổ, chai lọ hình thù độc đáo, đôi ba cuốn sách bìa cứng của
những tác giả nổi tiếng ở thế kỷ 19… Và dĩ nhiên chúng tôi lãi nặng vì giá quá
bèo. Tôi mua được chiếc áo của hướng đạo sinh với lắm logo thêu thùa bên hai
tay. Anh nói: Cái đó hay a. Nhiều thứ lạ, ông thấy không? Thời đó chưa mọc lên
cửa hiệu Costco như sau này, nơi hai anh em vẫn tha thẩn vào tha cả đống áo
quần về làm quà kỷ niệm chuyến vượt biên. Nhưng thời nào đi chăng nữa, người
hoạ sĩ luôn dành thời gian vào việc vẽ. Thời ở Franklin là thời nổ lực sáng
tác, ráo riết lao động bởi anh sắp bày tranh ở Georgetown Art Gallery, ở Metro
Gallery trường Đại học George Mason. Những con sóc sẽ thôi lân la vì biết chủ
nhà đang bận rộn, những hàng quán sẽ thưa dần buổi hàn huyên và tôi chuẩn bị
khăn gói ra phi trường Dulles, mong ngóng sự thành công tốt đẹp đang chờ đợi
anh ở các cuộc triển lãm.
Mới
đây, Trường Giang có chở tôi ghé vào “đường xưa lối cũ”. Cảnh vật hết chung
tình, lạ mặt bởi bao đổi thay. Nhà cửa đã đập phá, để tái tạo ra khuôn mặt sang
chảnh, như thể lâu rồi không về thăm thôn Vỹ và áo ai trắng quá nhìn không ra.
Gần đó có vườn rau sạch của bà người Việt mà ông chồng Mỹ đứng bên tính tiền
nhậm lẹ quá đỗi thành thục, có ngờ vực chăng ai biết tình ai có đậm đà? Biến
hoá theo chất chồng chân đi tháng ngày và tôi sực nhớ đa phần tên của các anh
có nhắc qua trong tạp văn này đều đã khuất núi, đều bỏ Annandale, bỏ Arlington,
bỏ Virginia, bỏ Maryland u sầu về chốn vĩnh hằng bằng bặt một vọng ngôn. Anh
Giang Hữu Tuyên (mất trước anh Đinh Cường hơn thập niên) cũng có bốn câu thơ hay:
“Đất gọi người đi buồn biết mấy
Sông dài chảy xiết một giòng thôi
Từ nay chín cửa mưa mù lối
Sóng nước bồng bềnh nhánh củi trôi”.
Một
nhánh củi lạc qua xứ tuyết, tôi mơ lắm một lần ngược dòng. Một mùa hè nào về
lại Virginia nhiều đổi thay, hóng tiếng còi tàu trôi mơ hồ và bóng con chim đỏ
lẻ loi về đậu sau cánh rừng thưa, hao hụt một khoảng trống lớn… “Người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực!” *… Thì bởi vậy!
Hồ Đình Nghiêm
Montréal, 7 tháng 10, 2016.
*Tống Biệt Hành của Thâm Tâm
Hồ Đình Nghiêm trong căn nhà 7403 đường Franklin
Ảnh Đinh Cường