XA LẮC
XA LƠ
DƯƠNG
NGHIỄM MẬU
(1936-2016)
Hồ
Đình Nghiêm
Hoạ
sĩ Đinh Cường ra đi chưa tròn năm. Hôm nay lại nhận hung tin: Nhà văn Dương
Nghiễm Mậu đột ngột qua đời ở Sài Gòn vào lúc 21 giờ 35 phút, ngày 2 tháng 8
năm 2016. Hưởng thọ 81 tuổi. Quá bất ngờ, quá rối trí, tôi xin mượn bài viết
“Con đường Dương Nghiễm Mậu” của nhà văn Mai Thảo để nhớ lại chân dung một Người
Anh đã thực sự xa cách.
MAI THẢO
Con đường Dương Nghiễm Mậu
Khoảng
cuối thập niên 50 và bắt cầu sang đầu thập niên 60- cây cầu đến nay còn soi
bóng tuyệt đẹp trên giòng sông đất nước- những tấm lòng đồng chí với những phá
vỡ và những làm mới của văn học và cho văn học, đã được liên tiếp chứng kiến gần
như trong cùng một thời điểm, hai cuộc lên đường đi về những chân trời phía trước
của một thế hệ những người cầm bút ở miền Nam.
Lên
đường thứ nhất khởi sự từ Lên Đường Lớn: Từ hiệp định chia đôi đất nước, từ Bến
Hải và vĩ tuyến 17, theo những bước chân trùng trùng của di cư một triệu. Đội
ngũ tiền phong của nó là Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Tô Thuỳ Yên, Quách
Thoại, Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Anh Tuấn và Nguyên
Sa, những người trước vào từ miền Bắc, bài thơ thứ nhất viết dưới những mái lều
vải tạm trú của sinh viên, hai người sau “viễn phương” hơn, lên khỏi những hầm
rượu tả mạn sông Seine, mới từ Pháp về. Những vì sao đầu này của một vòm trời
văn chương vừa dựng thoạt đầu là những lấp lánh lẻ tẻ. Trên tờ Dân Chủ của Vũ
Ngọc Các, tờ Đời Mới của Nguyễn Đức Quỳnh, Trần Văn Ân từ Lửa Việt, Người Việt
của sinh viên Hà Nội di cư. Rồi sau, cùng đến với nhau thành một họp mặt chung
trên tờ Sáng Tạo.
Lên
đường thứ hai, đã thấp thoáng trong dấu chân lên đường thứ nhất, nên có thể coi
như một đồng hành, là một gồm thành đầy khí thế của những người viết trẻ, tất cả
đều ở tuổi hai mươi, và diễn đàn chính của họ là tờ Văn Nghệ, chủ nhiệm Lý
Hoàng Phong, anh ruột nhà thơ Quách Thoại. Họ là Viên Linh, Trần Dạ Từ, Nhã Ca,
Du Tử Lê, Đỗ Quý Toàn, Trần Đức Uyển, là Nguyễn Thuỵ Long, Nguyễn Nghiệp Nhượng.
Và một người viết mới, tuy cùng một lên đường với bằng hữu nhưng độc lập, tách
biệt, như đi một mình trên con đường riêng. Đó là Dương Nghiễm Mậu.
Những
người của hai lên đường làm mới văn học nói trên, đến nay tuy đã mấy chục năm,
nhưng với phần lớn tôi đều giữ được những kỷ niệm về lần đầu gặp mặt. Kỷ niệm với
mỗi người một khác. Thanh Tâm Tuyền, căn gác xép ám khói ở toà soạn Dân Chủ, hắn
hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp chữ. Nguyên Sa cái mũ trắng
thầy giáo, lần đầu tới Sáng Tạo, gọi tôi vào phòng trong dậy một điệu nhẩy
Swing. Cái áo thun cũ, cái quần sà-lỏn của Doãn Quốc Sỹ, bữa ăn trưa đãi tôi ở
Đại Học Xá. Cung Trầm Tưởng, cái cà vạt đỏ chói, tóc đỏm dáng từng sợi. Viên
Linh mặt mày cau có giận dữ vì đến đưa thơ tôi còn ngủ vùi, cửa toà báo treo tấm
biển đi vắng. Trần Thanh Hiệp không nhìn lên, vùi đầu vào cuốn tự điển to gấp
hai người Hiệp. Quách Thoại, cái anh chàng khả ố ngất ngưởng ở tiệm ăn Thanh Thế,
lần gặp đầu đã tự nhận là vua thơ một thời. Nhưng kỷ niệm về lần thấy đầu, biết
đầu với Dương Nghiễm Mậu là vô tình và lý thú nhất, sau này tôi kể chuyện lại,
anh em còn cười lớn với nhau.
Nhớ
đó là một buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé vào thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang
cắm cúi làm việc. Tôi kéo ghế ngồi hút thuốc lá, thấy ở cạnh mình một cái sọt
rác đựng đầy những bản thảo gửi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt
những tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy là
một bản thảo truyện ngắn. Tôi đọc mấy giòng đầu, giật mình vì lối vào truyện mạnh
dạn, mới lạ, khác biệt hẳn với lối vào truyện vòng vo ngập ngừng thường thấy ở
những người mới viết. Đọc tiếp mấy trang nữa, tôi hỏi người bạn: “Bỏ đi tất cả
đây à?” Người bạn không ngửng đầu lên: “Ừ đã đọc rồi, bỏ không đăng”. “Moi lấy
đi được không?” “Để làm gì vậy?” Người bạn ngạc nhiên hỏi. “Mặc moi”. Tôi nói
và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở diễn đàn bạn vào túi áo, trở về
đăng ngay nó và nguyên văn không sửa một cái dấu phẩy trên tờ Sáng Tạo số đang
làm. Người bạn tôi chỉ biết thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy
được những hạt ngọc óng ánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi
đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn “Rượu, Chưa Đủ”, truyện đầu
tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị
vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc. Bao năm rồi không
đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện chỉ nhớ cái chàng nào đó
với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu Chưa Đủ một đoạn văn kết thúc tuyệt
hay. Đoạn văn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồ côi cha
mẹ từ sớm. Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố, không có một đồng
xu nhỏ. Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, người anh dẫn em vào một công
viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi quê hương, thầm nghĩ
hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình sông núi với em, để có
được cùng em, dù tội nghiệp buồn rầu, một ý niệm về điểm tựa, về nguồn gốc. Thật
là chững chạc và cũng thật là cảm động. Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương
Nghiễm Mậu.
Sau
này, ngắm nhìn một Dương Nghiễm Mậu đã mau chóng nổi tiếng, đã có hàng chục tác
phẩm đã in ra, có được thêm những nhận thức mới về cõi văn sáng rỡ một tâm thức
thời đại vô chừng nghiêm chỉnh hiếm thấy ở một người viết trẻ, tôi vẫn mãi mãi
nhớ đến hai đứa bé mồ côi trong Rượu Chưa Đủ. Một công viên vắng lặng. Công
viên đó chính là hình ảnh con đường văn chương Mậu đã mở ra và đi trên đó, một
mình. Những mô hình sông núi quê hương. Đứa nhỏ mồ côi nghiêm chỉnh, sớm hiểu
biết, ý thức trong truyện cũng chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong và rất
hoàn chỉnh, những mô hình sông núi cho cõi văn, cõi viết của mình.
Tuần
lễ trước đây, ở một lá thư của người bạn thân gửi sang từ Sài Gòn, có một đoạn
bạn tôi vắn tắt cho hay về Dương Nghiễm Mậu sau 1975. Dương Nghiễm Mậu không đi
năm 1976, phải đi trình diện học tập cải tạo, bị giam ở trại tập trung Phan
Đăng Lưu Gia Định, hơn một năm sau được thả về cùng một đợt với Hoàng Anh Tuấn,
Nguyễn Hữu Hiệu, Nhã Ca. Thư kể Mậu bây giờ làm việc ở một xưởng sơn mài thành
phố, vẫn sống cùng vợ con trong ngôi nhà cũ vùng ngoại ô Trương Minh Ký, một đời
sống từ lâu đã biết làm cho đơn giản đến tận cùng khiến nghèo túng đến mức nào
cũng không còn là thảm kịch, và dẫu ở cảnh ngộ nàp cũng thư thái ung dung. Thư
kể Mậu đi bộ khoan thai trên hè phố, cái dù đen nơi tay, cái nhìn hóm hỉnh, nụ
cười tươi tắn. Đúng là Dương Nghiễm Mậu, vẫn là Dương Nghiễm Mậu ấy, sau Rượu
Chưa Đủ đến tìm tôi và đưa thêm những truyện mới, những sáng tác mở đầu cho sự
nghiệp văn chương tốt đẹp này của Mậu đều được trang trọng giới thiệu trên tờ
Sáng Tạo Bộ Cũ và Bộ Mới. Nụ cười tươi tắn, cái nhìn hóm hỉnh. Đúng là Dương
Nghiễm Mậu, độc lập một trời riêng, tách biệt một đường riêng, phản chiếu trong
văn viết và trong một tấm hình nổi tiếng độc đáo của Trần Cao Lĩnh. Mậu nhắm mắt
mỉm cười dưới một mặt kim đồng hồ kim phút kim giờ cùng ngộ nghĩnh rơi xuống.
Sau
biến cố 1975, trước khi bị truy nã và do đó đứt hết liên lạc với bằng hữu, tôi
còn gặp Dương Nghiễm Mậu nhiều lần. Một lần ở cổng xe lửa số 6. Trời râm mát mà
tác giả “Địa Ngục Có Thật” vẫn chiếc dù đen trong tay, như một vật tuỳ thân. Mừng
rỡ đứng lại trò chuyện giữa tan hoang cộng sản đã vào. Mậu cười nói với tôi:
“Nhiều chuyện lạ sắp xẩy ra, đây chỉ là bắt đầu và anh em mình sắp nhìn thấy”.
Rồi kể là đã sắp đặt tức khắc xong xuôi đời sống. Đã đơn giản còn cho đơn giản
hơn nữa. Đã thu hẹp còn cho thu hẹp hơn nữa. Để lúc nào phải đi thì đi. Ít lâu
sau, quả nhiên Dương Nghiễm Mậu đã “phải đi”, cùng với anh em văn nghệ sĩ miền
Nam. Đi thẳng vào trại tập trung Phan Đăng Lưu.
Một
lần gặp khác, trên hè đường Tự Do, xế cửa nhà sách Xuân Thu. Mậu, một cây dù Tú
Xương, tay kia xách một túi giấy, nói ở trong là một cái chăn len, đồ dùng quý
giá nhất còn lại trong nhà, và Mậu đang trên đường ra chợ trời Tôn Thất Đạm bán
lấy ít tiền đem về cho vợ mua gạo. Kể chuyện khốn quẩn mà cười thật vui, nét mặt
linh hoạt, ánh mắt riễu cợt. Sau 1975, tôi đã nhìn thấy ở nghệ sĩ ta một số bản
lĩnh chói loà. Những phong thái trầm tĩnh, những bản ngã dũng liệt, trong nghịch
cảnh mới như một đường kiếm tuốt ra khỏi vỏ, mới lấp lánh hiện hình. Nhưng tươi
tắn, vững vàng và trong sự trẻ trung đặc biệt gần như không có tuổi thì là
Dương Nghiễm Mậu thôi. Chỗ này là chỗ nói đến võ công thâm hậu, đến tư duy đạt
thành và kín thầm nhưng đoán thấy, sự kiêu hãnh tuyệt vời của người nhà văn nơi
Dương Nghiễm Mậu.
Lần
sau cùng gặp, thời gian này Mậu vừa được trả tự do, là chiếc dù đen hiền triết
tôi nhìn thấy ở trước rạp chiếu bóng Trương Minh Giảng. Lần đó, kẻ bên này đường
kẻ bên kia, tôi đang bị truy lùng ráo riết, nên chỉ nhìn nhau gật đầu, vẫy tay
chào không ai đứng lại. Khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng tôi nhớ vừa đi vừa còn nhìn
lại, nhìn cây dù đen văn chương xa dần, lòng đầy quý mến.
Bạn
hữu còn kể ít nhiều chuyện về hơn một năm lao tù của Mậu ở Phan Đăng Lưu. Như về
cái thái độ trầm tĩnh của Mậu đã có một ảnh hưởng rất tốt đẹp với anh em cùng
tù, đặc biệt là với Nhã Ca, bao nhiêu năm vẫn trước sau kính trọng Dương Nghiễm
Mậu như một người anh lớn. Biết Nhã Ca ngạo ngược nóng nẩy, Mậu vắn tắt khuyên:
“Cô còn phải trở về nuôi tụi nhỏ”, và kèm sát Nhã Ca trong những buổi học tập
kiểm thảo. Phải nên có thái độ nào cho đúng, kiểm thảo như thế nào mới là khôn
ngoan, an toàn, nhất nhất Nhã Ca đều chịu nghe theo những chỉ dẫn của “anh”
Dương Nghiễm Mậu. Một chuyện ngộ nghĩnh về Phan Đăng Lưu: Buổi sáng hai anh em
được trả tự do, Nhã Ca có người đến đón ở cổng trại, Mậu không có ai. Nhã còn
năm đồng trong túi, Mậu không có một đồng nào. Nhã đưa cả năm đồng cho bạn, để
đi xe. Mậu cầm tiền cười lớn: “Anh là ông vua đi bộ ở Sài Gòn, cần gì xe cộ nữa”
và dùng năm đồng của Nhã Ca ung dung vào quán uống cà phê. Chi tiết này đủ cho
nhìn thấy bản lĩnh Dương Nghiễm Mậu trong nghịch cảnh.
Một
chuyện nghộ nghĩnh khác, vẫn về Phan Đăng Lưu. Chẳng hiểu vì lý do nào cùng với
Lê Xuyên tác giả “Chú Tư Cầu”, Mậu là một trong hai tù nhân văn nghệ bị quản huấn
bỏ quên lâu nhất. Mãi gần nửa năm sau mới được gọi tên. Cuộc thẩm vấn tức cười
không thể tả được:
-
Anh tên gì?
-
Dương Nghiễm Mậu. Tên thật Phí Ích Nghiễm.
-
Sao lại những hai tên?
-
Một tên cha mẹ đặt. Một tên vì nghề nghiệp.
Quản
huấn lắc đầu, Mậu không có hồ sơ tội phạm. Đành hỏi:
-
Anh bị bắt vì tội gì?
-
Tôi không biết.
-
Vô lý. Phải có tội mới bị bắt. Anh làm nghề
gì?
Mậu
nửa đùa nửa thật:
-
Nghề văn nghệ sĩ.
-
Có thế chứ. Vậy tôi ghi vào hồ sơ tội trạng
anh, nhớ kỹ nhé, tội anh là tội văn nghệ sĩ.
Tội
văn nghệ sĩ. Tếu, nhưng cũng là sự thật. Tác phẩm Dương Nghiễm Mậu, sau 1975
cũng bị đem ra trưng bày tại phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Nguỵ như sách của chúng
tôi. Nội dung những tác phẩm Dương Nghiễm Mậu cũng bị đem ra mổ xẻ và đả kích
thậm tệ ở các lớp học, các buổi họp và trên đài phát thanh. Cái “tội văn nghệ
sĩ” người ta định cho Mậu ở buổi thẩm vấn Phan Đăng Lưu, tôi biết Mậu công nhận
và còn công nhận mãi. Như một ở cùng cảnh ngộ với bằng hữu. Như một tin tưởng
vĩnh viễn ở chính mình, và qua bản thân, ở văn chương. Văn chương với Dương
Nghiễm Mậu mang cái ý nghĩa tốt đẹp và toàn vẹn nhất của một tự thành. Con đường
đi vậy là trước sau thông suốt. Những bước chân đi trên con đường ấy vậy là đã
tới.
Tin
nhà đưa sang cho biết hiện giờ nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã trở thành công nhân
một xưởng sơn mài. Bằng hữu văn nghệ ở Sài Gòn gần như trên hết thảy đã ngừng
viết và đã phải đổi nghề. Để sống. Để có lao động, để được yên thân. Nghe nói
Nguyễn Thuỵ Long đi đạp cyclo. Nghe nói Trần Lê Nguyễn bán sách cũ. Nghe nói
Nguyễn Đình Toàn nuôi thỏ nuôi gà ở làng Báo Chí cũ. Tất cả đều dãi dầu, tất cả
đều sương nắng. Nghe những tin nhà về bạn bè, thấy lòng xót xa buồn rầu, nhìn
thấy những khổ cực đang chồng chất lên những thân thể chữ nghĩa thất thế. Riêng
Dương Nghiễm Mậu, không hiểu sao tôi lại thấy vui vui và muốn cười. Có lẽ vì
Dương Nghiễm Mậu bao giờ cũng đến với tôi bằng khuôn mặt đó. Khuôn mặt một người
nhắm cả hai mắt lại, cho cái nhìn trở thành cái nhìn bên trong, cái nhìn tâm hồn,
và nụ cười tủm tỉm hóm hỉnh là chân dung Mậu ở tấm hình ngộ nghĩnh của Trần Cao
Lĩnh. Cũng có lẽ vì tôi thấy Mậu vững chãi nhất, chẳng phải buồn phiền và xót
xa cho hắn.
Công
nhân xưởng sơn mài. Cây dù đen Tú Xương. Đúng là cảnh “sáng vác ô đi tối vác về”
rồi nhé, Dương Nghiễm Mậu! Những tấm sơn mài. Cây dù bên cạnh. Tôi đang hình
dung ra Dương Nghiễm Mậu ngồi một mình trong một xưởng thợ lạc loài. Muốn hỏi Mậu
ở Việt Nam nghìn dặm: “Những tấm sơn mài ấy có vẽ hình sông núi quê hương?” Chắc
là có. Chắc là có. Không trong tranh thì trong tim, trong hồn, trong thức,
trong ý. Và cái nền của sơn thì vẫn là một con đường. Con đường đi qua đời sống.
Con đường đi qua văn chương. Con đường đẹp nhất, vì con đường thẳng tắp. Con đường
đẹp nhất, vì là con đường một mình. Cuối cùng là đứa trẻ mồ côi trong truyện ngắn
đầu tay “Rượu Chưa Đủ” của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao giờ mồ côi. Mồ
côi là những kẻ khác kia.
Mai
Thảo
Cali.
tháng 8, 1985.