LÀNG CHÀI CUỐI CÙNG
TRÊN PHÁ TAM GIANG
Yên Trinh – Thái Lộc
Xóm Sáo - xóm nhà chồ cuối cùng trên phá Tam Giang - Ảnh:
Thái Lộc
TTO
- Qua khỏi cầu Tam Giang, làng chài có tên là xóm Sáo (xã Điền Hải, huyện
Phong Điền, Thừa Thiên - Huế) hiện ra yên bình trong ánh chiều tà với hàng
chục ngôi nhà chồ dựng trên mặt nước.
Đây
là xóm nhà chồ cuối cùng trên vùng đầm phá dài ngót nghét 20 cây số này. Tại
làng chài này, biết bao vui buồn của những kiếp người mưu sinh đã trở thành một
phần lịch sử của vùng phá
Tam Giang...
Đêm trên phá Tam Giang
Sau
khi chuẩn bị gạo mắm và lò than đủ dùng cho buổi tối, anh Trần Tường (46 tuổi,
chủ một nhà chồ cuối xóm Sáo) gọi chúng tôi lên đò. Quay máy nổ, anh hướng đò
ra mặt phá, rẽ những loáng nước sóng sánh trong bóng đêm dần buông phủ.
Vừa
cầm lái, anh vừa kể về thời gian huy hoàng của nghề nò sáo: “Khoảng năm 2000
trở về trước tôm cá nhiều vô kể.
Nghề
nò sáo (sáo làm bằng tre và lưới tạo thành cái bẫy hình chữ V, tôm cá vào là
không ra được) ở đây sống khỏe, kiếm được 1-2 triệu đồng mỗi đêm là chuyện
thường. Mỗi sáng đổ nò, tôm cá thấy mà mê. Bữa ni thì cạn kiệt rồi!”.
Lộc
trời chẳng đãi được mãi. Một thời gian dài, nơi con phá này người ta đua nhau
làm nò sáo, lưới, ghe cào, kích điện... khiến tôm cá ngày càng ít.
Giữa
thập niên 2000, sau những cảnh báo của các nhà chuyên môn và các tổ chức phi
chính phủ, chính quyền đã sắp xếp lại nò sáo và bảo vệ con phá chặt chẽ hơn.
Vì
vậy các trộ sáo (khu vực quây lưới và cắm cọc tre dài chừng 200m để đặt sáo) ít
hơn nhiều so với trước, dân vạn đò thường chia ra một trộ sáo là 2-3 hộ thay
phiên nhau.
Anh
Tường cho biết: “Cứ tới lượt hộ nào thì hộ đó ra ngủ đêm canh sáo. Cứ luân
phiên, ai cũng có cái ăn, lại giữ được nguồn tôm cá”.
Sau
đó, mỗi năm một lần họ lại dành ra mười mấy triệu đồng thay lưới và tre đã mục
rách. Dõi theo hướng anh chỉ, chúng tôi thấy những vạt tre lưới nhấp nhô tận
ngoài xa, hệt như những cánh đồng trơ gốc rạ nếu ví mặt nước là một thửa ruộng
khổng lồ.
Những thế hệ làm nò sáo
Không
giống cảnh anh Tường và những người ngủ lại canh sáo giữa mênh mông trời nước,
xóm nhà chồ có phần tươi vui hơn.
Khi
đêm đặc quánh, bữa cơm qua loa đã dọn xong, những đứa trẻ tụm lại ở góc nhà ôn
bài hoặc bày trò chơi. Mấy con đò nếu không ra trộ thì nằm lắc lư trên lạch
nước ven đê trước nhà.
Cách
nhà anh Tường chừng 6-7 căn là nhà của ông Phan Dạc (80 tuổi) và bà Hoàng Thị
Huy (82 tuổi). Vợ chồng ông được cho là “khai canh” xóm Sáo, đến ở từ năm 1965.
Tuổi
cao nhưng còn rất minh mẫn, ông bà thay phiên nhau kể: “Hồi trước gia đình tui
ở phía bên kia phá, khi lấy nhau qua đây sống. Hồi nớ khu ni hoang vu sình lầy,
tui dựng nhà ở rồi sống bằng nghề sáo. Dần dần xóm nì đông hơn, cũng rặt một
nghề làm sáo”.
Đến
năm 1985, cơn bão dữ quét qua xóm. Nhiều nhà chồ xiêu vẹo, ngã đổ. May mà người
không việc gì. Một số hộ chuyển vào ở trong làng, nhiều hộ tiếp tục bám trụ xóm
chồ.
Vợ
chồng ông Dạc từ lúc ráp vào nhau sinh liền 10 người con. Ngồi kế cha mẹ, anh
Phan Thu (46 tuổi) cho biết hiện mình và hai anh trai cũng sống bằng nò sáo.
“Cha
tôi mới nghỉ sáo mấy năm ni, nghề ăn vào máu chừ khó bỏ lắm. Ông như nhân chứng
của cái xóm ni, trước có mấy cụ nữa nhưng về với tổ tiên rồi” - anh nói.
Căn
nhà chồ xập xệ cuối xóm Sáo là của gia đình anh Trần Dũng và chị Hà Thị Mến. 41
tuổi, anh Dũng sống ở đây đã 23 năm, còn chị Mến ở từ nhỏ.
Chúng
tôi thật sự nể sự chịu thương chịu khó của người phụ nữ này khi nghe chị kể
cảnh nhà mình: “Nhà tui ba đời làm sáo rồi. Tới lượt canh sáo thì vợ chồng cùng
ra đò, bỏ 6 đứa con ở nhà, đứa lớn chăm đứa nhỏ.
Nhiều
tối tui cũng lo lắm vì lỡ chúng đùa nhau rồi té xuống nước, nhưng may trời
thương nên chúng đều khỏe mạnh. Năm đứa đầu toàn là gái, có đứa út là trai mới
hơn 4 tháng tuổi”.
Thường
vào tháng 8 tháng 9 âm lịch, những cơn bão tới, cả nhà dắt díu nhau lên xóm chợ
cách đó non cây số ở nhờ nhà người ta trong 4-5 ngày. Cuộc sống cứ vậy trôi như
dòng nước trên con phá.
Ở
xóm này không chỉ có đàn ông làm nghề nò sáo. Bà Phạm Thị Lãnh (58 tuổi) cho
biết bà sống ở đây đã 30 năm. Từ khi chồng mất năm 2000, cứ đêm liền ngày, cũng
nhờ nò sáo mà bà thân cò lo được cho 6 đứa con.
Chị Hà Thị Mến làm lưới lừ bên căn nhà chồ để nuôi sáu
người con - Ảnh: Thái Lộc
Ước mơ vào bờ
Không
như những xóm vạn đò khác khi mà những đứa trẻ vừa biết mặt chữ đã phải bỏ dở
việc học do cái nghèo và bị cuốn theo nghiệp chài lưới, dân xóm Sáo đã gửi lại
cho con cái những giấc mơ tươi sáng.
Dạo
một vòng xóm kéo dài chừng nửa cây số, xen lẫn trong chuyện cơm áo, chúng tôi
nghe người ta bàn luận, hỏi thăm nhau “con gái mi tuần ni về không?”, “con chú
năm ni thi khối D à?”, “nhà nớ ngó rứa mà con học giỏi”...
Dĩ
nhiên, xóm này vẫn có cảnh rượu chè, cảnh sinh nở vô tư như cỏ cây rồi chật vật
lo cái ăn cái mặc, nhưng sự ham học của lũ trẻ giúp người ta lạc quan hơn.
Chuẩn
bị thi đại học, Trần Thị Lan (con anh Trần Dũng) cho biết cả tháng nay em lúi
húi ôn thi, lại vừa trông mấy đứa em nên mệt phờ. Lan học tiếng Anh khá nên thi
khối D và nếu đậu sẽ học ở Đại học Khoa học Huế.
Em
bẽn lẽn: “Xóm năm ni có 8 bạn thi đại học, kế bên nhà cũng có một bạn thi khối
D. Mẹ nói dù ra răng cũng phải học, không cho em làm sáo vì cực lắm”.
Tiếp
lời con gái, chị Mến nói: “Hắn thi đại học, con bé kế học lớp 10, rồi lần lượt
cho tới đứa kế út học lớp 2. Ở cái nhà xiêu vẹo rứa cũng sợ sập chớ, nhưng dồn
tiền lo cho con học quan trọng hơn”. Chị cho biết nếu Lan thi không đậu, chị
cũng khuyên con kiếm cái nghề mà học “để lên bờ”.
Trong
số hai mươi mấy người cháu của ông Dạc thì hiện giờ 7 người đang học đại học ở
thành phố Huế.
Các
con của ông tự hào về thế hệ kế tiếp: “Không biết răng tụi hắn mê học, tự chỉ
bảo cho nhau chứ người lớn ai cũng ít chữ. Nghe bảo học ra cũng khó xin việc,
nhưng cứ cho tụi hắn học cho có cái hiểu biết”.
Để
có thêm tiền lo cho con, các anh con trai của ông Dạc làm gia công lưới lừ
(loại bẫy cá bằng lưới, có hình trụ để đặt sát đáy nước), mỗi cái lời khoảng
60.000 đồng. Sau giờ đi canh sáo, họ chong đèn còng lưng ngồi làm đến nửa đêm.
Sợ một ngày nào đó không còn tôm cá và thực hiện quy hoạch lên bờ của Nhà nước, một số hộ dân tích cóp mua được đất, cất nhà cách xóm Sáo không xa.
Anh
Tường, con ông Dạc, mua được miếng đất 50 triệu đồng cất cái nhà nhỏ để sau này
con cái có chỗ ở. Chị Mến cũng có căn nhà ở khu chợ nhộn nhịp. Một số hộ dân
chỉ dùng nhà chồ làm nơi ở tạm khi đi canh sáo, làm lưới hay thả lừ.
Hỏi
họ có muốn lên bờ không, hầu hết đều gật đầu vì như thế tốt hơn cho con cái,
nhưng nghề sáo họ vẫn giữ vì trót hàm ơn phá Tam Giang.
Rời
xóm Sáo trong một buổi sáng í ới tiếng mua bán cá tôm, chúng tôi chợt nghĩ nếu
những căn nhà chồ mai này mất đi, chúng sẽ mang theo một nét tính cách đặc biệt
của phá Tam Giang này.
Yên
Trinh – Thái Lộc
Nguồn: Tuổi Trẻ online