ĐỖ HỒNG NGỌC
“Một cốt cách ở đời” (*)
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến,
NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẻ sợi tóc làm
tư, lặn lội vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng
hiện ra trước mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ
đặt ở trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn
hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây… Chút nắng vàng giờ đây cũng vội…
(Trịnh Công Sơn). Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều người
tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy.
Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ
của trần gian nữa. Dù có khi anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Cuối Cùng của Võ Phiến là một tập sách trang nhã. Bìa cứng cổ
điển. Nhưng bìa bọc ngoài lại là một mầu trời xanh và mây trắng với những cái
bóng của Võ Phiến. Không phải hình, mà bóng. Một cái lõi, xưa cũ, cứng cáp bên
trong; một cái vỏ, bay bổng, tuyệt mù… bên ngoài.
Trang cuối không đánh số trang của Cuối Cùng như đã nói là một bài
thơ. Mộc Mạc là tên bài thơ đó. Một sự trở về. Về với mộc mạc, với chất phác. Đi
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt (Trịnh Công Sơn). Chắc vậy rồi. Với Võ
Phiến, chốn về đó là xóm là làng, có con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ,
bà con cô bác…
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc Mạc)
“Đều là cố tri”. Họ thân thiết nhau quá, gần gũi nhau quá mà! Đi
sao nỡ. Xa sao đành. Chẳng qua gặp thời thế thế thời thôi. Một người như Võ
Phiến hẳn “chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà cái thềm nhà cho
đến bụi cây khóm cỏ…:” (Quốc văn giáo khoa thư). Rứt sao ra.
Rồi Võ Phiến viết tiếp sau khi ngậm ngùi nhớ những “cố tri” đó của
mình:
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
( Mộc Mạc)
Ra gì là ra gì? “Múa may” coi cũng được quá đó chứ! Mọi người đều
nhìn nhận Võ Phiến, dù không nói ra mà ai cũng phải gật gù. Đông Hồ khen “nhất”
miền Nam. Nguyễn Hiến Lê khen tùy bút sâu sắc, tự nhiên, dí dỏm, đa dạng… Đặng
Tiến bảo tác giả hàng đầu, Nguyễn Hưng Quốc kêu nhà văn của thế kỷ… Vậy mà múa
may mãi chẳng ra gì sao? Tới bây giờ, nhớ Đêm xuân trăng sáng hay Thác
đổ sau nhà của ông đọc từ hồi còn trẻ, tôi vẫn còn như nghe nhột nhột
ở đùi trong…
Tuyệt vời nhất ở hai chữ: mỗi lâu. Vừa mộc mạc vừa sâu thẳm. Sao
lại “mỗi lâu”? Ấy là bởi ông đã đợi chờ, đã nghe ngóng, đã mong mỏi nó “rụp
rụp” cho rồi, ai dè nó cứ dùng dằng dủng dẳng, bực cả mình. Rụp rụp như cái dao
phay chặt thịt mà ông từng thấy ở một người đàn ông mặc áo thun, bán hủ tiếu,
quơ dao múa may mấy cái rồi rụp rụp ngon lành. Đầu này nó cứ đủng đỉnh, cứ lằng
nhằng. Nó càng đủng đỉnh, càng lằng nhằng ông càng bẽn lẽn vì đã có đôi lần ông
làm thơ “giã biệt” gởi cho “những người ở lại’ rồi, thế mà, chính ông lại ở
lại. “Quê” quá chứ phải không? Nhưng mỗi lâu rồi thì sao? Thì, khổ thay, cứ mỗi
lâu nó lại thêm một cách ly, rã rời! Cách ly? Rã rời? Ông thấy hình như mọi
người đâu đó đã sẵn sàng cả rồi, hồi hộp chờ đợi cả rồi, vậy mà chuyện lại
không tới. Tẽn tò, tản ra, xa dần, quên lãng… ? Tự ông, ông cảm thấy “ngượng
ngập vu vơ”. Ngượng ngập. Vu vơ. Văn viết không ra, chỉ có thơ mới “nói lên”
được: mỗi lâu thêm một cách ly rã rời…
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
(Mộc Mạc)
Người ta thì gần đất xa trời, ông thì gần trời xa đất. Đất lạ,
trời quen. Với người xa xứ “lạc loài đến đây” như ông thì cách ly với con trâu,
con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ đã đành là khổ, mà cách ly với những thân tình
càng khổ hơn: “Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng
thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xun xoe nhấp nhỏm. Bỗng
chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện… như thế…
trên đời… ối dào! (Người ơi người ở dài dài, tr. 45)”. Mãn Giác thiền
sư chẳng đã từng than “Sự trục nhãn tiền quá/ Lão đầu tùng thượng lai…” đó sao?
Còn “rã rời”. Làm sao mà không rã rời cơ chứ? Có cái gì gắn với cái gì đâu.
Toàn tạm bợ, lắp ráp cả đó chứ. Ngũ uẩn giai không mà! Bài thơ “Cũng Hợp” – lại
Thơ – mở đầu cho cuốn Cuối Cùng, ông chẳng bảo “lắp ráp” xài chơi, lâu ngày
chầy tháng thấy “cũng hợp”, cũng OK. Rồi đến một lúc nghĩ hay là ta… ở lại trần
gian luôn chừng nghìn năm nữa cũng được. Để rồi giật mình: đã lắp ráp thì hẳn
có lúc phải rời ra. Một câu hỏi đặt ra: Lắp ráp để chi? Để “trưa nào cũng bay”
( tr. 139) chớ chi. Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì rã. Rã rồi lại ráp không chừng.
“Cả năm uẩn chúng quấy ta là thế” (Cũng Hợp). Võ Phiến hiện nguyên hình thành
một… thiền sư!
Dặn lòng lòng vẫn nao nao
Ta đi mây ở, trưa nào cũng bay
Nhưng thiền sư mà có cái chuyện dặn lòng này mới lạ! Dù sao thì
cũng chỉ nao nao thôi. Nao nao khác với bừng bừng. Đó là khi ông nhìn những
phút “ân tình” của chim câu: “…cái đuôi con chim mái, vẹt qua một phía…”. Xong.
Rồi bay. Trưa nào cũng bay. Ông thấy “nao nao”. Nao nao quá chớ. Nó đến nó đi
hờ hững thản nhiên. Sao trời nỡ đọa đày nhau đến thế? (Cũng Hợp, tr 17).
*
“Cái còn lại của một cốt cách: ít ỏi quá, mong manh quá”.
(Hình bóng cũ, tr. 32).
Không đâu. Cái cốt cách ở đời của Võ Phiến theo tôi không ít ỏi
quá, cũng chẳng mong manh quá. Nó đáng cho ta ngả mũ chào. Với một nụ cười tủm
tỉm, hân hoan.
Đỗ Hồng Ngọc
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Võ Phiến.
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Võ Phiến.