ĐỖ
XUÂN TÊ
Trần
Hoài Thư
-
người lính và nỗi buồn chiến tranh
nhân
đọc lại “Truyện từ Bách khoa”
Chẳng
phải bây giờ tôi mới đọc truyện của Trần Hoài Thư qua mấy tác phẩm anh góp nhặt
và in lại từ Văn và Bách khoa. Mà do nhu cầu công tác tôi
được kể là ‘chuyên viên đọc’ khi phụ trách về điểm báo và chủ biên tin tức chiến
sự cho một cơ quan tư tưởng đầu não của quân đội vào thời cao điểm của cuộc chiến,
thì một nhà văn trẻ đầy triển vọng kiêm phóng viên chiến trường chịu lặn lội
vùng đồng bằng sông Cửu có bút danh Trần Hoài Thư không thể ra ngoài ‘tầm ngắm’
của chúng tôi.
Tình
cờ khi viết bài cảm nghĩ về Những tháng
năm cuồng nộ của Khuất Đẩu (đăng trên Da Màu), tôi ước mong tác phẩm được
xuất bản ở hải ngoại để quần chúng cùng thưởng thức, thì không ngờ trong một lời
bình của độc giả, nhà văn Trần Hoài Thư cho biết Thư Quán Bản Thảo đã làm việc
này. Tôi mau mắn gửi mua và được anh tặng thêm cho hai cuốn trong đó có Truyện từ Bách Khoa anh vừa xuất bản
(2011). Tôi cứ băn khoăn vì được tặng chứ không mất tiền, dù anh nói chưa quen
nhưng có đọc một số bài của tôi.
Đọc
xong cứ để đó, thỉnh thoảng tôi lại xem. Định viết cảm nghĩ nhưng thấy nhiều
cây bút uy tín trong đó có cả bạn anh đã viết nhiều về anh và khi nhìn lại khối
lượng đồ sộ về những tác phẩm anh viết và xuất bản sau thời Bách Khoa cùng công
việc anh miệt mài cho sinh hoạt văn học nghệ thuật tại hải ngoại mấy thập niên
gần đây mới thấy công trình này đã ‘phủ bóng’ lên những tác phẩm đầu tay của
người viết văn kiêm người lính trận năm xưa.
Suy
nghĩ như vậy có vẻ lô-gích, nhưng hình như không phải cách nhìn của Trần Hoài
Thư, thực sự anh vẫn trân trọng những tác phẩm đầu đời, được viết bằng tâm tư
giằng xé và trải nghiệm sinh tử của người lính trẻ, được chắt lọc và hình thành
từ những chất liệu sống pha đầy máu, mồ hôi và nứơc mắt của nhiều số phận trong
một thời đất nước điêu linh, được lưu lại bằng những trang giấy học trò nhòe
nhoẹt nhàu nát ghi vội trên đường hành quân mà nhiều khi bản thảo chưa đến tay
chủ biên thì người viết đã được tản thương về một trạm quân y hay một nhà quàn
dã chiến một nơi heo hút (trích ý viết
trong Lời mở của sách).
Những
vốn quí này không thể mua mà có, không thể có rồi dễ quên, không thể quên rồi
chối bỏ, mà đã trở thành tư liệu vật thể trong văn học khi những người lính vừa
chiến đấu vừa cầm bút để thuật lại những gì họ thấy, họ cảm nhận như những nhân
chứng sống để rồi viết lại, chia sẻ với người cùng thời và các thế hệ sau.
Dù
cho lịch sử có sang trang, quân đội có tan hàng, lòng người có ly tán, nhưng
mãi mãi các tác phẩm văn học trong thời chiến vẫn là những đóng góp và ảnh hưởng
nhất định cho ‘hai mươi năm văn học miền
Nam 1954-1975’ vốn bị nhà cầm quyền trong nước tìm mọi cách cấm đoán và triệt
tiêu từ sau biến cố 30.4 nhưng may mắn thay những người sống sót sau cuộc chiến
ở hải ngoại mới đây đã tập hợp, nhìn lại và đánh giá đúng mức qua một cuộc hội
thảo văn học vừa qui mô vừa tầm vóc do hai tờ nhật báo lớn của quận Cam và hai
diễn đàn văn học mạng uy tín phối hợp tổ chức.
Cũng
phải kể những tờ như Bách Khoa, như tờ Văn của một thời Sài gòn vang bóng đã
có công tạo sân chơi cho các cây viết triển vọng và các chủ biên giàu lương tâm
nghề nghiệp (như Lê Ngộ Châu) đã khích lệ văn nghệ sĩ hãy sống và viết như họ
đang sống. Nhiều bài viết nhiều câu chuyện đã thực, sống động đến nỗi lưỡi hái
kiểm duyệt của cơ quan thông tin miền
Nam phải cắt xén để khỏi dao động tinh thần chiến đấu của binh sĩ.
Môt
số truyện ngắn của Trần Hoài Thư cũng nằm trong trường hợp này, tôi hiểu và
không lấy làm lạ ngay trong truyện ngắn đầu tay của anh đăng trên Bách Khoa ‘đã bị kiểm duyệt bỏ trắng nhiều đoạn’ ngoài
ý muốn của tác giả và chủ biên tòa soạn. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, các nhà
văn nhà báo họ có một giác quan thứ sáu rất bén nhạy, họ biết chỗ nào sẽ bị cắt
và họ vẫn né tránh được lưỡi hái làm hại chữ nghĩa để rồi cuối cùng những gì họ
muốn gởi gấm vẫn đến tay bạn đọc.
Quay
lại chủ điểm của bài viết, mấy tháng gần đây người ta hay viết và nhắc nhiều đến
Trần Hoài Thư, một cây bút được nhiều cảm tình của những người lính cựu, một
nhà văn được vị nể của những bạn văn và độc giả yêu văn chương. Tôi phục chị Hải
Hà đã mở miệng được anh để có một cuộc trò chuyện khá thú vị. Qua đó tôi mới hiểu
về anh nhiều hơn, mới biết một con người vốn chiến đấu can trường chưa đầy ba
tháng thương tích hai lần trong đơn vị thám kích của một sư đoàn bộ binh đóng dọc
phía đông Trường Sơn lại là người sĩ quan tự đào ngũ để vào quân lao tỏ thái độ
phản kháng những phi lý của cuộc chiến
tranh mà trước đó dù bị đẩy đưa vào chỗ chết anh vẫn chiến đấu hết mình trong
tác phong và trách nhiệm của người lính.
Cũng
may là tôi chưa viết về anh vào thời điểm khi đọc xong cuốn sách, chứ chỉ dựa
vào văn phong, vào nội dung của từng cốt chuyện, vào nhân vật không gian và thời
điểm, vào những gì tác giả muốn gởi gấm, qua cách nhìn bình thường của người điểm
sách thì quả là hời hợt khi chưa nắm bắt được tâm tư tác giả, quá trình bản
thân, hoàn cảnh sống, môi trường được đào luyện, động cơ sáng tác, những quan hệ
bạn bè, những mối tình lớn nhỏ, những vùng đất đi qua, những dấn thân, hy sinh,
những thử thách, thành công và thất bại của cuộc đời, nói chung là những chi tiết
mà bạn bè bạn văn của anh tình cờ hé lộ qua chân dung đích thực của một nhà
văn. Chẳng vậy mà khi muốn phê bình hoặc quảng bá cho một cuốn sách mới ra mắt
người ta có thói quen tìm và trò chuyện với tác giả, nhưng chẳng phải dễ khi tiếp
cận được những tác giả vừa có tài vừa quá khiêm tốn.
Tôi
chưa có dịp gặp anh, nhưng cứ nhìn hình ảnh từ thời áo lính thư sinh qua tấm
bìa của sách so với hình hài mai một qua
những ký họa lúc về chiều, rồi liên hệ với thực tế cuộc đời, Trần Hoài Thư quả
là một con người ‘thép’. Có ai trong chúng ta từ thơ ấu đến tuổi lập thân do
tình cờ của số phận đã trải qua trại mồ côi, rồi nhà trường, quân trường, chiến
trường, quân lao trước chiến tranh, rồi trại tù cộng sản, nhà tù lớn, trại tỵ nạn
trên Biển Đông sau chiến tranh, rồi làm lại từ đầu nơi xứ người cũng bắt đầu từ
nhà trường trở thành kỹ sư thảo chương, miệt mài lao động suốt 25 năm cho một
công ty hàng đầu của Mỹ. Vừa lao động trí óc vừa lao động chân tay, vừa sáng
tác vừa in ấn, vừa biên tập vừa phát hành, bảy mươi vẫn chưa nghỉ, vẫn chẳng
hưu và lo cho bản thân, dù thân xác đã ghim đạn của VC và những chứng bệnh kinh
niên không hẹn mà gặp lúc tuổi về già.
Tôi
cũng có thời mặc áo lính và trải qua 12 năm trong trại tù cộng sản nhưng vẫn
‘chóng mặt’ khi đọc những trải nghiệm của anh, một người lẽ ra phải được thư
nhàn thanh thản như cái tên Trần Quí Sách cha mẹ đặt cho rồi Trần Hoài Thư do tự
chọn vì yêu và trăn trở với chữ nghĩa.
Tôi
đoán là anh cũng muốn yên thân khi chọn cho mình nghiệp nhà giáo (giáo sư toán
của một trường trung học đất Tam Kỳ, quê của các bạn văn Trần Yên Hòa, Nguyễn
Lương Vỵ). Nhưng họ đưa anh vào lính, mà lẽ ra độ mắt cận thị của anh theo luật
thì được miễn hoặc hoãn. Anh bị thương hai lần không chết, anh đã sống và tồn tại
theo cách riêng của anh.
Đọc
những bút ký chiến trường của anh trong Bách Khoa bỗng dưng tôi thấy thương hại
anh khi cứ phải mày mò tìm kính lau kính vì chiếc poncho không đủ kín để che những
giọt mưa của của một thời tiết sáng nắng chiều mưa đêm về lội ruộng khi anh đi
theo những cánh quân của các đơn vị vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Có
lúc người cầm máy cho anh khi chỉ huy chết trên tay anh, toán quân tản lạc vì bị
phục kích, anh vẫn mang vết thương rỉ máu băng rừng về được nơi tải thương và
các câu chuyện nằm trong quân y viện trở thành những trải nghiệm sống mà ít nhà
văn viết được khi chính tác giả là thương binh và đối mặt với những cái phi lý
khi các đồng đội của anh phải mất đi một phần thân thể, phế tật hay chuyển xuống
nhà xác trước dòng nước mắt tiếc thương của những người vợ trẻ và ánh mắt thơ
ngây vô tội của các trẻ thơ. Nỗi buồn chiến tranh làm anh trăn trở từ đây.
Càng
thấy những bất công phi lý của chiến tranh anh quay sang tỏ thái độ phản kháng,
dù tiêu cực và hệ lụy cho bản thân. Anh muốn làm Hà Thúc Nhân, người bác sĩ
quân y chống tham nhũng cùng vào quân lao với anh. Nhân chết, Thư sống. Còn may
cho anh lẽ ra từ quân lao phải ra đơn vị tác chiến dưới dạng ‘lao công chiến
trường’ nhưng nhờ sự duyệt lại hồ sơ của con ngựa chứng và biết khiếu viết lách
của anh, cơ quan tôi đã ‘bốc’ anh về Vùng 4 chiến thuật để làm…‘phóng viên chiến
trường’ hết lội suối giờ lội sình để tường
thuật và gởi các bản tin sốt dẻo cho các cơ quan báo chí quân đội cấp quân đoàn
và trung ương.
Có
điều thú vị khi đọc mấy chuyện của anh từ cuốn sách này, ta thấy lẽ ra trong tư
cách phóng viên và nhu cầu công tác anh phải tường thuật các cuộc hành quân
theo tiến trình (xin phép dùng tiếng Anh) Who, What (and) Where, nhưng vì là
nhà văn anh lại đặt nặng theo cảm tính và luôn đào sâu khía cạnh How (and) Why.
Anh ghét các con số báo cáo tổn thất địch ta, số vũ khí tịch thu vô tri vô
giác, những buổi thuyết trình hành quân buồn tẻ mà lại hay ‘chạy đầu, đi đầu để
săn nhặt những hình ảnh sống động’ và quan sát những tình huống bên lề, từ trên
trực thăng nhìn xuống, có khi là em bé đang thả diều trong cảnh yên bình của một
đồng cỏ xanh chỉ ít giờ sau chỉ còn con diều và cuộn chỉ.
Ngày hôm nay, tôi lại bay qua cánh đồng
cỏ cũ. Trời vào hè, nắng vàng rực rỡ, chói lòa cả những áng mây xa. Con tàu như
quen thuộc hạ xuống 100 bộ. Tôi không còn thấy em bé thả diều nữa. Chỉ còn cánh
đồng cỏ màu vàng sậm mênh mông bát ngát. Tôi nghe một nỗi buồn đến đắng cay đầu
lưỡi. Một nỗi buồn tê tái như khi nhớ lại chiếc cặp với trái soài non, những
chiếc nắp ken, và con diều, cuộn chỉ vấy máu trên sân trường…(trích
bút ký chiến trường Cánh Diều trên đồng cỏ tháng 3/74).
Còn
rất nhiều chuyện hay và cảm động, có dịp bạn đọc xin tìm sách của anh để đọc lại
như một hoài niệm, để cùng suy nghĩ về trải nghiệm của một nhà văn kiêm phóng
viên, do tình cờ của lịch sử và đưa đẩy của số phận trở thành cây viết tài tử
trong chiến tranh rồi thành cây bút chuyên nghiệp tài hoa sau chiến tranh.
Tiện
đây người viết cũng xin tỏ lòng khâm phục người lính Trần Hoài Thư, chúc anh
chân cứng đá mềm lo cho văn học, quên đi nỗi buồn chiến tranh một thời trăn trở.
Cũng không quên gởi lời thăm hỏi đến hiền thê của anh, một cái bóng phụ nữ nếu
không có chị chắc khó đoán cuộc đời ‘con ngựa chứng’ sẽ trôi về đâu. (Trần Hoài
Thư tuổi Ngọ)
Đỗ Xuân Tê
California,
tháng 12-2014