Mẹ tôi nói cha đi lính đánh giặc xa, ít khi được
nghỉ phép về thăm con.Trong ký ức của thằng
Bé, cha xuất hiện đầu tiên lúc cậu bé hơn ba tuổi. Tôi ở nhà ngoại đùa giỡn với con gà
cưng thì cha lên đón về. Cha mặc bộ
quần áo bốn túi trắng tinh, đi xe đạp Dura sáng loáng.
Ngoại bồng tôi đặt lên giá mang hành lý, bắt dang rộng hai chân,
và dặn phảỉ nắm chặt yên xe cho khỏi té.
Gần về tới nhà, đôi chân mỏi nhừ, tôi sơ ý đút bàn chân phải vào tăm (nơi khác gọi là căm) xe trong lúc cha tiếp tục đạp. Đau quá, tôi la lên và buông tay ngã đập mặt xuống đường, bất tỉnh. Lúc tỉnh dậy thì cha đi rồi, tôi chưa
có dịp nhìn rõ mặt cha.
Bưu tá đưa giấy về làng báo tin nội có thư bảo
đảm. Khăn đóng áo dài, nội cùng
anh Đồng lên tỉnh lãnh gói hàng cha gửi về. Mở thư ra đọc, nội trầm ngâm một mình,
đợi tối mẹ Gái (nội gọi
mẹ) đi chợ về kêu mẹ lên nhà trên.
Tôi và thằng Gái nhảy ra khỏi giường nấp sau tường nghe lóm.
Xa mẹ cha lấy một người đàn bà khác; dì có
mang hai tháng thì sẩy
thai và
cha lượm bào thai gửi về. Cha dặn
nội đem bào thai ra nhà thờ họ làm lễ phát tang
và chôn cất giống như con hữu sinh vô
dưỡng (có sinh mà không nuôi được). Nội khó nghĩ vì điều cha Gái (nội gọi
cha) mong muốn trái với phong tục; tuy nhiên, cha thừa kế trưởng tộc và
có chức phận, bảo gì nội
phải nghe. Từ đầu đến cuối mẹ khóc, không nói một lời.
Đợi mẹ và nội ra khỏi phòng, hai đứa
lẻn vào ra xem.
Chiếc hộp trên bàn màu mun đen tuyền, bên trong lót nhung vàng, đựng ba cái bầu giác,mỗi
bầu chứa một lát thịt bầy nhầy đỏ tái, đậy lên trên bằng một cục bông
gòn lớn. Bầu giảc là cái lọ nhỏ hình quả bầu dùng để “giác” tức
là hút máu hay hơi trong thịt để chữa bệnh.
Đêm đó, nội dậy châm điếu bình
hút thuốc liên miên, mẹ thút
thít trong phòng, và anh tôi nằm mở mẳt nhìn lên nóc mùng.
Sáng sớm thằng
Gái rủ tôi đi đồng,
tức là làm việc bài tiết ngoài đồng vì nhà quê không có cầu tiêu.
Xong việc, anh tôi dùng que gỗ vếch cục phân lớn gói vào trong tấm lá chuối khô. Anh bắt tôi thề không được nói với ai,
nếu không nghe, “Tau mặc
kệ cho thằng Xê đập mi.”
Thời may, chúng tôi về nhà thì nội có việc ra
ngoài. Thằng Gái
mở hộp, lật lớp nhung lót
lên, và trét hầu hết cục phân vào đáy hộp. Phần còn lại, anh chia ba cho vào bầu
giác rồi đậy bông gòn lại như trước.
Xong, hai anh em ra giếng rửa tay rồi đi học bài.
Chiều lại tôi nghe nội tằng hắng ở nhà trên và
gọi anh Đồng, “Mi đem chôn cái hộp ni
ở góc vườn cho tau. Hắn
có mùi rồi, để lâu trong nhà không nên.”
Tôi thắc mắc trong đầu, tại sao có một bào thai
mà cần đến ba cái bầu giác?
*
* *
Chúng tôi đi Huế thăm cha. Đây
là lần đầu tiên tôi ra khỏi làng quê và nhất là được đi máy bay ngồi trên cao thấy
người đi và xe chạy dưới đất như kiến bò. Phi cơ đáp xuống sân bay Phú Bài, cha
đem xe đốt-cát (Dodge 4x4, đọc theo tiếng Pháp) nhà binh ra đón đưa về Lăng Cô, nơi cha đóng đồn
và thuê nhà ở với dì Cúc.
Bà chủ nhà đón tiếp chúng tôi rất niềm nỡ. Bà trạc tuổi mẹ, góa chồng, và có cô
con gái tên Yến trạc tuổi tôi. Dịu
dàng trong chiếc áo tay phùng
màu hồng, Yến trông khác hẳn mấy đứa con gái làng tôi. Bà chủ nhà nắm tay mẹ, đầy thiện cảm
dặn dò, “Chị yên tâm ở đây, không sợ ai ăn hiếp; tui có võ Bình Định không ngán ai hết.”
Dì Cúc trẻ hơn mẹ, cố gắng chiều lòng chúng tôi nhưng từ lúc gặp dì thằng
Gái đã hằn học, mặt
hầm hầm, và ăn nói cộc lốc. Ngay đêm đầu tôi nghe cha chửi mẹ xuất giá tòng phu mà không vâng lời
chồng mang đủ tiền cho cha trang trải nợ nần. Mẹ biện bạch thời buổi
gạo châu củi quế buôn bán ế ẩm lại phải nuôi ba đứa con dại, mẹ đã
hy sinh vơ vét hết mới có được món tiền ấy. Khi mẹ van cầu cha bớt ham mê cờ bạc
vứt tiền qua cửa sổ, ông to tiếng và chửi tục.
Bà chủ nhà đãi chúng tôi ăn bún mắm sò, món đặc
sản Lăng Cô. Vốn tham ăn và lạ
miệng, tôi ngốn một lúc bốn tô. Ăn
mắm sò lạ bụng, tôi bị tiêu chảy, mẹ và dì Cúc bắt nằm ngửa lấy dầu tràm thoa lên bụng. Cha chửi mẹ, “Mi đẻ thằng con chó đói
thèm ăn khát uống lâu ngày.”
Mẹ và thằng
Sáng ngủ trong phòng với cha, tôi và thằng Gái ngủ chung với dì Cúc ở phòng bên, mỗi đứa nằm một bên. Nửa đêm tôi thức giấc vì lưng bàn tay đụng vào một khối thịt tròn mềm
mại cựa quậy không ngừng. Mở mắt,
tôi thấy cha nằm trên người dì Cúc, thân hình nhấp nhổm liên hồi. Cha nạt đùa,“Ngó chi, ngủ đi!” Thằng Gái cằn nhằn, “Đ... lầm rầm như chó lẹo, làm răng mà
ngủ?”
Trong bữa cơm tối cả nhà không ai lên tiếng, ngoại trừ dì Cúc mời
mẹ và giục chúng tôi ăn.
Tôi lấy muỗng múc canh vào chén thì bất thần lãnh
một cái cú
đầu đau điếng; cha
mắng, “Đồ ngu như heo, đã
dặn để đôi đũa xuống rồi mới múc canh, răng mi
không nghe?” Nhìn thẳng vào đôi
mắt long lên vì giận dữ của cha, giữ nguyên đôi đũa trên tay, tôi cầm
muỗng múc canh một lần nữa và nghiến răng chịu cái cú đầu thứ hai;
lần này cha đánh thẳng tay không thương tiếc.
Tôi và thằng Gái lỉnh ra ngoài khi cha lùa cả mâm
đồ ăn xuống đất. Sau khi mẹ và dì Cúc dọn lại bàn ăn, dì gọi
chúng tôi vào ăn. Thấy cha bắt đầu
ăn trở lại, thằng Gái nói lớn, “Không ăn; đồ ăn đổ rồi cho heo ăn đi.”
Đêm cuối cùng, cha mẹ lại cãi nhau. Cha chửi, “Mi là con vô học đẻ ra hai thằng con mất dạy. Liệu
hồn, có ngày tau lấy súng
bắn chết hết.”
Cha cho lính đưa chúng tôi ra phi trường, không một
lời từ giã. Mẹ mừng cha không đánh
đập mẹ như mọi lần – có lẽ nhờ bà chủ nhà che chở. Từ lúc bị cú đầu đến khi về làng, tôi chưa có một hột cơm vào bụng.
Nguyễn Ngọc Hoa
25.3.2013