Phần
giới thiệu:
Thuần là nhân vật có thật trong truyện MƠ CÙNG TÔI GIẤC MƠ ĐÀ LẠT, hiện đang sống ở New Orleans – tiểu bang Louisiana. Bài viết
mà chúng tôi giới thiệu dưới đây do chính Thuần viết vào tháng 2.2014 vừa rồi,
kể lại chuyện tình của mình – một chuyện tình lãng mạn, đẹp và chung thủy. (Phạm Cao Hoàng)
Chồng tôi bỏ tôi ở lại để đi vượt biên sau khi lấy nhau đúng một
năm.. Tôi không hề nghĩ là anh ấy sẽ ra đi mà không nói với tôi một lời. Khi chị
An, chị thứ năm của chồng tôi nói, "Cậu Thịnh đi rồi, mợ biết không?"
tôi tưởng là mặt đất vừa sụp lở dưới chân mình. Tối hôm đó, nằm trên giường mà
không ngủ được, nhìn lên bức tường trống trải, cái áo của nhà tôi còn đó, nước
mắt tôi ứa ra; những khổ đau và hạnh phúc mà tôi đã đọc được trong tiểu thuyết,
tôi tưởng đó chỉ là những tình cảm không hề có thật, chỉ là những gia vị
mà mấy ông nhà văn đã thêm thắt vào câu chuyện, nhưng bây giờ tôi biết rằng nó
có thật, và rất thật trong tôi.
Anh là người bạn trai đầu tiên của tôi khi tôi mới 15 tuổi. Bây giờ
anh vẫn chọc tôi :" Em tuy mới mười lăm mà đã lắm người thăm..." Lúc
đó anh đang theo học khoá 2 trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Thực
ra, bảo là yêu nhau nhưng bấy giờ tôi cũng chẳng biết gì. Sau khi anh ra trường,
chúng tôi có liên lạc thư từ trong một thời gian rồi lãng đi như tất cả những mối
tình học trò khác.
Sau 1975, gia đình tôi về Sài Gòn. Ở Sài Gòn đôi khi tôi có nhớ tới
anh, nhưng tôi không hề có ý định tìm gặp anh. Anh đã là dĩ vãng. Tôi tiếp tục
đi học và tốt nghiệp Cử nhân Sinh Hóa. Tôi đi làm việc ở Phan Thiết. Trong một
chuyến đi công tác, tôi gặp lại anh trong một trại cải tạo. Lúc đó anh đã được
về và làm việc với một nhà thầu đang xây cất một nhà kho lương thực cho trại
này. Gặp lại anh, tôi nhận ra ngay cho dù anh không còn là một "chàng tuổi
trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo việc đao cung" nữa, mà là một
người trung niên gầy gò bước đi phải nhờ vào cây gậy chống, kết quả của lao động
nặng, bệnh sốt rét và suy dinh dưỡng sau nhiều năm cải tạo. Anh cũng đã nhận ra
tôi. Tối hôm đó, tôi trằn trọc không sao ngủ đưọc. Tôi suy nghĩ rất nhiều về mọi
chuyện, nhưng tôi quyết định sẽ lấy anh mà không bận tâm về quãng đời quá khứ
cũng như thân phận hiện tại của anh.
Khi mẹ tôi biết ý định của tôi, mẹ tôi phản đối. Bây giờ, tôi hiểu
được rằng chẳng có một bà mẹ nào vui vẻ chấp nhận khi đứa con gái cưng của mình
từ chối nhiều cuộc theo đuổi khác để lấy một người mà mẹ tôi cho là "không
có gì...". Tôi bỏ làm ở Phan Thiết về Saigon. Sau hơn 2 năm với thật nhiều
nước mắt của tôi, mẹ tôi nhượng bộ và cho chúng tôi làm đám cưới.
Một năm trời sống với nhau, cho dù có vất vả lo toan, chúng tôi rất
hạnh phúc. Anh ra đi bỏ tôi lại một mình, tôi hụt hẫng biết chừng nào. Trong suốt
hai tháng trời tôi không nhận được tin tức gì của anh và của các chú. Cho đến một
ngày, mẹ chồng tôi đến chợ nhỏ ở Hàng Xanh nơi tôi bán vải, cho biết cụ đã nhận
được tin anh và mọi người đã đến trại tỵ nạn Galang, Indonesia bình an. Đưa mẹ
chồng tôi ra xích lô về lại Hoà Hưng, tôi dọn hàng về nhà mẹ tôi, tôi đã về ở với
mẹ lại từ ngày anh đi. Trên đường đạp xe về nhà, nuớc mắt tôi không ngừng rơi.
Thôi thế là hết. Tôi không biết tôi đã mong muốn điều gì. Tôi mong cho anh đi
thoát hay tôi mong cho anh bị kẹt lại đâu đó? Bây giờ thì tôi biết, cuộc hẹn hò
gặp nhau lại ở Mỹ không đơn giản và dễ dàng như hẹn gặp nhau lại ở chợ Bến
Thành.
Cả tháng sau khi biết anh đi thoát, tôi mới nhận được thư của
anh. Buổi trưa hôm đó, ở chợ về nhà, Quang mở cửa cho tôi và nói, " Có thư
của chú Thịnh". Quang là con của chị Thành, chị kế tôi, nhưng các cháu ít
khi gọi tôi là dì mà thường gọi là cô. Tôi cầm lá thư, bước lên lầu. Đọc thư
anh, tôi khóc từ chữ đầu tiên đến chữ cuối cùng, sau đó tôi tha thứ cho anh.
Trong thư anh giải thích tại sao ra đi không từ biệt tôi. Anh biết chắc chắn là
tôi sẽ khóc, anh sợ nước mắt tôi sẽ làm mềm lòng khiến anh ở lại. Nếu anh ở lại
thì làm sao mà có cơ hội ra đi nữa. Cho đến bây giờ không còn lá thư đó trong
tay, tôi vẫn nhớ y nguyên lời anh viết " Anh có thể làm nhiều điều khiến
cho người ta ghét, nhưng anh không thể làm điều gì khiến cho người ta khinh. Nợ
tiền bạc anh có thể trả nhưng nợ ân tình thì khó cho anh sòng phẳng, mong em đừng
lo ngại anh sẽ làm điều gì có lỗi với em".
Thế là tôi bắt đầu cuộc ra đi "tìm chồng tôi" rất sớm, từ
khi anh hãy còn ở trại tị nạn Galang. Vài tháng sau đó, anh Hưng, chồng chị An
và chú Bảo, em anh Hưng tổ chức một chuyến đi từ Rạch Giá. Tôi gom góp vốn liếng
mà tôi dành dụm được hơn một năm buôn bán ở chợ để tham gia chuyến đi. Chuyến
đi không thành, tôi bị bắt và tù 3 tháng ở Rạch Giá. Sau đó tôi không thể nhớ
là mình đã đi bao lần nhưng tôi đã ở tù thêm hai lần nữa: một lần, một năm ở Cần
Thơ, lần khác là 1 tháng ở Kampuchea. Cuối cùng thì tôi cũng đến được Mỹ.
Đến Mỹ với một vài bộ quần áo và một ít tiền mà anh gởi qua Thái
Lan cho tôi. Vốn liếng tiếng Anh chỉ là hai chữ " yes" hay
"no" mà đôi khi còn dùng không đúng lúc. Bây giờ tôi đã có "tất
cả những gì mà một người Mỹ bình thường ước mơ để có”. Đôi khi nhớ lại ngày
xưa, tôi đã từng ao ước chỉ một túp lều tranh cũng được, để tôi và anh có một tổ
ấm riêng tư. Bây giờ, nhìn lại cơ ngơi của mình , tôi còn ao ước gì hơn.
Tấm
hình này tôi gởi tặng anh sau khi anh ra trường, vào Thiết giáp và đang đóng
quân ở vùng 4. Mười năm sau, khi gặp lại, anh vẫn còn giữ được nhưng lại đánh mất
lúc vượt biên. Tôi có lại được tấm hình này là nhờ Hoa, một người bạn thân từ
nhỏ, Hoa đi bảo lãnh và mang theo. Khi tôi tìm lại được Hoa sau hơn 30 năm thất
lạc, Hoa tặng lại cho tôi. Cám ơn Hoa và anh Hoàng.
Thuần
February 2014