PHẠM
VĂN NHÀN
Tiếng
leng keng của chiếc chuông đồng
Tặng Trần Hoài Thư
Anh ngồi xuống cầm một vỏ
đạn trong nhiều vỏ đạn mà lũ nhỏ trong xóm đựng trong cái nón lát. Anh xem cẩn
thận từng vỏ đạn, lật đít xem hạt nổ đã nổ chưa. Một đỗi, anh hỏi mấy đứa trẻ:
- Tụi mày nhặt ở đâu những
thứ này?
Mấy đứa nhỏ như không muốn
nói, nhìn nhau. Một đỗi, anh hù tụi nhỏ:
- Nếu đứa nào không nói thì
tao báo công an hay mang đi chỗ khác. Tao không mua.
Đứa này nhìn đứa kia, anh
dọa thêm:
- Không nói tao kêu công an
tới bắt.
Tụi nhỏ sợ chỉ chỗ nhặt
những vỏ đạn này. Anh cười:
- Tao nói như vậy thôi, chứ
kêu công an làm gì. Nhưng có điều tụi mày đừng lên trên ngọn đồi đó nữa. Coi
chừng có mìn chết uổng mạng đó.
Lũ trẻ le lưỡi như sợ. Nhưng
rồi tụi nó nói:
- Nhưng nếu có nữa, bác mua
không?
- Tụi mày bán những vỏ đạn
này để làm gì?
- Chờ ông bán cà rem lên,
tụi con mua ăn.
Anh cười với lũ nhỏ:
- Ừ tao mua cho. Nhưng lần
sau có lên trên đó dẫn tao đi với.
Mấy đứa nhỏ nghe anh nói,
cùng cười và có vẻ gần với anh hơn. Có đứa còn hỏi: bác không gọi công an chứ?
Anh kí đầu thằng bé. Trời về trưa, nắng như muốn đổ thêm lửa xuống cái làng khô
cằn, nứt nẻ, chỉ có một lượng mưa ít ỏi trong mùa. Đất ruộng khô, những gốc rạ
vàng trông thật buồn bã. Làng chẳng có một chút sinh khí nào. Lũ nhỏ ngoài
những ngày tới trường học chữ nghĩa, ngày nghỉ cũng chẳng biết làm gì hơn là đi
lùng, tìm kiếm, lục lạo những thứ mà không ai thèm để ý tới, như cái lon đồ hộp
gỉ sắt, như sợi dây dù còn sót lại trong đất trên những ngọn đồi mà ngày xưa,
khi còn chiến tranh, nơi đó là nơi đóng quân của lính.
Anh biết những ngọn đồi đó,
quê anh mà chỗ nào anh chẳng biết, nhưng chẳng khi nào anh lên trên những ngọn
đồi ấy. Anh muốn quên nó đi, quên tất cả, quên đi như ngày anh cùng với những
người bạn vứt bỏ những gì mà anh cho là quen thuộc trên người khi tới Ba
Ngòi. Mười năm đi đó đi đây, những chiến
trường lớn, nhỏ anh đều tham dự, nghĩ là sẽ không bao giờ còn sống dưới lằn đạn
của đối phương để đến ngày phải trút bỏ trên người những thứ mà anh đã mặc mười
năm. Nỗi nhục nhã ấy anh cũng không muốn nghĩ tới huống hồ lên trên những ngọn
đồi mà có cái lô cốt cao nghệu kia. Sao người ta không đập phá nó đi, biến ngọn
đồi thành một nơi có sức sống của cây xanh, hay cây mì, cây bắp. Hay người ta
muốn để đó để cho người dân trong làng thấy hình ảnh của chiến tranh qua biểu
tưởng cái lô cốt thời Tây để lại. Anh chịu!
Nhưng hôm nay, lũ trẻ lại
đem đến cho anh những vỏ đạn đủ loại để bán. Chiến tranh qua, nhưng những vỏ
đạn này đánh thức anh dậy trong tâm trí của một người muốn quên đi những nỗi
đau trong tâm thức anh. Những người bạn của anh còn sống hôm nay, được gì, hay
cũng lam lũ kiếm sống qua ngày bằng đủ mọi nghề như anh. Ngày tới thị trấn Ba
Ngòi, bạn anh hỏi: tụi mình làm gì bây giờ. Anh trầm ngâm khi nhìn thấy những
chiếc xe nhà binh một thời nằm đậu bên đường cùng với những thứ quân dụng khác,
những con người thất thơ thất thểu, những bà vợ bế con ngồi bên lề đường mà tâm
trí để ở đâu. Tiếc nuối ư, anh nghĩ là không. Vì họ không có gì để mà tiếc
nuối. Anh nói với người bạn khi nhớ lại những câu thơ trong bài anh đã học
trong bài học thuộc lòng khi học ở trường làng. Lâu quá, anh chỉ còn nhớ hai
câu: Văn chương phú lục chẳng hay. Trở về
làng cũ học cày cho xong. Vâng, anh đã nói với bạn anh như thế. Và làng cũ
đã đón anh.
Làng cũ, anh bỏ đi từ lâu,
nay trở về vẫn là cái làng với con trâu đi trước cái cày theo sau.
Học cày, dễ nhưng cuộc sống
chung quanh của bà con còn khó khăn quá. Anh quyết định làm lại cái nghề của ông
bà anh để lại, mà anh đã biết ít nhiều. Đó là nghề đúc đồng. Một thời nỗi tiếng
trong làng xã. Những dự kiến trong tương lai để phục hồi lại cái nghề truyền
thống này, nhưng nghĩ cho cùng, đồng đâu có đủ để anh thực hiện những dự án
trong đầu. Cho nên, anh nghĩ, anh sẽ đúc lại những khuôn mẫu có sẳn của ông bà
để lại, như chân đèn cổ đổng cho người dân dùng. Vật chất dù thiếu thốn, nhưng
tâm linh của người dân thì không thiếu. Anh nghĩ như vậy, cho nên anh mới dựng
lại cái chòi bên dưới bụi tre. Tấm phản được kê bên cạnh như chỗ ăn nằm của anh
trong những giờ mệt mỏi. Hai ống thổi lửa. Cái lò than lúc nào cũng cháy âm ĩ,
chờ đợi. Đúc đồng, anh đã nghĩ ra nhiều kiểu dáng rất nghệ thuật. Không như
những khuôn đúc có sẳn của cha ông anh. Hẳn phải tạo ra những kiểu dáng hay
hơn, đơn giản nhưng phải là đẹp và mang tính nghệ thuật. Nhưng, đồng, nguyên
vật liệu khó tìm mua, khi anh vẫn còn nghèo quá. Anh xoay ra làm thợ rèn. Rèn
dao, rựa, và lưởi hái cho bà con trong làng, nếu có ai cần đến. Và, những
chuyến xe đạp về thành phố để thu mua những phế liệu cũng từ chiến tranh ( vì
cuộc sống). Từ cái nhíp xe ô tô bị gẫy, từ một miếng thép bị hỏng, anh thu mua
mang về để làm những vật dụng mà người dân cần đến. Cuộc sống rồi cũng đắp đổi
qua ngày với hai ống thổi lửa ngày nào cũng phì phò, và những lần quai búa đập
vào những thanh sắt, âm thanh của sắt ngày qua ngày như một cái gì đó quen
thuộc, không thể thiếu trong cuộc sống tẻ nhạt nơi anh đã sinh ra.
Bây giờ, nhìn lại những vỏ
đạn của những đứa trẻ trong làng nhặt được gồm đủ loại, nhỏ có, lớn có mà anh
quyết phải quên đi những thứ trang bị cho một cuộc chiến mà mười năm anh tham
dự. Anh nghĩ, cuộc chiến này không nên nhớ làm gì. Có nhớ chăng là nhớ đến những
người bạn trong đời còn sống hay đã chết. Chết thì không nói làm gì. Nhắc lại
như để nhớ. Còn những người bạn còn sống, như anh, gian khổ ngày này qua ngày
khác trong cuộc sống phải làm để mưu sinh. Như anh, vẫn phải ngồi thổi ống lửa,
vẫn phải quai búa, vẫn phải mài lại cái dao cắt chuối, cái liềm gặt lúa cho bà
con mà kiếm sống. Bên cạnh đó sản phẩm đúc đồng của anh vẫn còn trong ý nghĩ,
chưa thực hiện mà bao lần anh đã nói với người bạn dưới phố của anh, mỗi lần
hắn đạp xe bán cà rem đến bán trong làng. Nhưng với anh công việc ngày qua ngày
vẫn dậm chân tại chỗ, trong khi bạn anh với chiếc xe đạp cà tàng vẫn đi đó đi
đây với hai cái bình bán cà rem trên xe. Hắn bảo, công việc chẳng mệt nhọc gì,
cứ cà tàng lắc chuông đi đến những ngôi làng xa bán cà rem cho lũ trẻ. Không
ngờ, trên con đường kiếm sống của bạn anh đã trôi dạt trên chiếc xe đạp cà tàng
đến tận làng anh ở. Hai người bạn gặp nhau, chuyện cũ chuyện mới râm ran cả
ngày, anh quên thổi lửa, bạn anh quên lắc chuông đồng cho lũ trẻ đến mua cà rem,
mà người bạn anh tâm sự tiếng chuông như reo vui cho những đứa trẻ trong làng
và cũng reo vui cho chính hắn. Tiếng
chuông ấy như tạo thêm sự kích thích chất nước bọt ứa ra từ miệng của những đứa
trẻ. Như tiếng nhạc reo vui cho chính hắn đạp xe trên đường dài. Chất lạnh của
kem và chất ngọt của đường làm mát những đôi mắt mở to, và đôi môi hồng thêm
lên một chút. Anh thấy, cuộc sống của lũ trẻ có thêm chút vui hơn khi nghe
tiếng chuông reo lên từ đầu làng.
Hắn bảo với anh, tao đạp xe
bán cà rem thế mà thích lắm. Hôm nay tao đến làng này, ngày mai tao qua làng
khác. Chứ đi một làng chắc gì bán được. Khi đạp xe, nhìn trời nhìn mây nhìn
những đàn chim bay qua trên đầu tao, nhìn những đám mây trắng như bông tao tưởng
tượng ra những hình thù ngộ nghĩnh, nào con chó con gà, cùng với những hình thù
của những con người quái đản cái miệng mở to ra đớp thức ăn như miệng con cá
mập đớp mồi, rồi tao cười vang trên đường đi. Tao hát nghêu ngao một mình. Tự
Do ghê gớm. Không gian rộng thoải mái cho đôi chân của tao. Hắn cười rất vui
khi nghĩ đến hai chữ tư do ghê gớm ấy. Nhưng, anh hỏi, trời mưa mầy bán không
được thì sao, vợ con mấy đói. Hắn lại cười. Vẫn nụ cười thoải mái như ngày nào
hai đứa ở bên nhau. Trời sanh voi sanh cỏ. Cái khổ, cái đói tụi mình đã gánh
chịu nhiều rồi. Ngày ăn gạo sấy lá giang, uống nước suối. Ngày lang thang trong
thành phố với những người bạn mới quen, hắn vẫn cười. Nụ cười của hắn như giải
tỏa được tất cả: bán không được tao ăn
với những đứa trẻ. Mầy chưa thấy, thích lắm, những con mắt mở to của chúng thật
tội nghiệp khi tao cho tụi nó ăn thả dàn. Những con mắt mà tao tin là lũ nhà
giàu dưới phố không bao giờ nhìn thấy được. Chỉ có tao thấy và tao cũng mở to
đôi mắt của tao để cùng vui với những đứa trẻ ấy. Tội nghiệp lắm. Anh biết
hắn nói thật. Cái lòng mở ra của hắn lúc nào cũng thế. Thật với bạn bè. Và,
thật với những đứa trẻ con nghèo xơ nghèo xác.
Một lát, có đứa mạnh dạn
hỏi anh:
- Bác mua hết những vỏ đạn
này bao nhiêu tiền. Có đủ cho tụi cháu ăn cà rem không?
Anh cười trấn an:
- Đủ, nhưng tụi mày phải
hứa là không lên trên ngọn đồi ấy nữa. Có hứa thì tao mới mua đủ cho tụi mày ăn
mỗi đứa hai cây. Hứa đi.
Những đứa trẻ trố mắt hỏi
lại: hai cây cà rem. Anh ừ. Nhìn thấy những con mắt vui rộ lên như người bạn
bán cà rem anh đã nói. Nhưng rồi, mấy đứa nhỏ hỏi lại:
- Sao tụi cháu không được
lên đó nữa, hả bác?
Anh nhìn đống than trong lò
còn âm ỉ, chỉ chờ hai ống thổi lửa thổi lên là phực cháy; như những trái lựu
đạn hay trái mìn nào đó nằm dưới lớp đất mấy mươi năm nay, chỉ chực chờ ai đụng
tới là phát nổ. Anh nhớ lại tháng trước cái chết của thầy giáo Nhẫn cuối xóm.
Anh không trả lời mấy đứa trẻ nhưng anh hỏi:
- Tụi mày còn nhớ cái chết
của thầy giáo của tụi mày không?
- Thầy Nhẫn!
- Ừ.
- Thầy chết vì bị mìn phải
không bác?
- Không. Vì lựu đạn.
-Tụi cháu không hiểu lựu
đạn.
Anh cầm vỏ đạn lên đưa cho
lũ trẻ xem và chỉ cho chúng nó thấy hạt bổ phía dưới đít của vỏ đạn. Đấy, nó nổ
chết người đấy. Lựu đạn tròn và lớn hơn, to bằng nắm tay cái hạt nổ này nhiều
lắm. Tóm lại là thứ nào cũng rất nguy hiểm.
Mấy đứa trẻ ngồi trước mặt
anh nét mặt sợ rõ rệt. Anh bảo: hứa với
tao đừng lên trên đồi đấy nữa chứ? Tụi nhỏ nói: hứa, nhưng cháu thích ăn cà
rem. Ừ, tao sẽ cho ăn.
Cái chết của thầy giáo Nhẫn
để lại cho cả làng nỗi thương tâm vô bờ bến. Chiến tranh đã đi qua bao nhiêu
năm, hơn hai mươi năm rồi mà những vật gây chết người đó vẫn còn hiện hữu đâu
đây. Từ bụi chuối, hàng cau. Từ con mương dẫn nước. Nơi nào cũng có thể có
những thứ nguy hiểm ấy, và cũng có thể nổ bất cứ lúc nào. Buổi sáng, thầy ra
vườn đào thêm vài ba cái lỗ để trồng thêm những cây chuối con mà thầy đã tách
ra từ cây chuối mẹ. Loại chuối già hương này vừa thơm vừa ngon. Nào ngờ đào tới
lỗ chuối thứ ba thì một tiếng nổ vang lên, thầy ngã xuống, ngực thầy đầy những
miểng đạn. Người nhà nghe tiếng nổ chạy ra, thầy đã chết bên miệng lỗ chuối mới
đào. Chiến tranh đã qua đi hơn hai mươi năm mà bom mìn, lựu đạn vẫn còn. Làm
sao lấy hết những thứ quỷ quái ấy ra khỏi những mảnh đất trên quê hương một
thời đã nhận biết bao nhiêu đau khổ cùng cái đau của người dân quê. Thầy mất,
thế mà lũ trẻ vẫn đi lùng lục những nơi mà ngày xưa là một chiến trường. Sự
nguy hiểm như lúc nào cũng chực chờ. Anh cấm tụi nhỏ, anh nói: tụi mày muốn ăn
cà rem, tơi đây tao mua cho ăn. Đừng bao giờ tới những chỗ ấy nữa. Chết uổng
mạng.
Đang ngồi với những đứa trẻ
trong làng. Những vỏ đạn mà chúng tìm được trên ngọn đồi không đủ để cho anh
thực hiện một ý nghĩ là tạo dáng cho một công trình nghệ thuật đúc bằng đồng.
Anh cho tất cả vào cái bao vải nhỏ, để dành. Trời như càng đổ lửa xuống cái
làng quê nhỏ bé của anh. Nắng chói chang bên ngoài. Chỉ có chút bóng mát dưới
bóng tre, thì lũ trẻ nghe tiếng chuông len keng từ bên ngoài đường. Lũ trẻ reo
vui: tiếng chuông cà rem bác ơi. Anh đứng dậy, đi ra khỏi cái lò rèn, nhìn về
con hương lộ. Người bạn thấy anh, giơ tay vẫy chào. Anh ngoắt tay cho người bạn
vào. Và lũ trẻ la lên: cà rem! cà rem! Chúng vui một cách lạ lùng. Người bạn
anh dựng xe, cười. Lạ, cũng vẫn nụ cười ấy, vui trên những giọt mồ hôi mà hắn
đạp xe. Hắn nói:
- Ông cũng ăn cà rem à?
- Mày tưởng tao là gì mà
không biết ăn cà rem của mày. Hôm nay tao mua cho lũ trẻ cùng ăn.
- Mua hết nhé, tao khỏi qua
làng khác. Hắn vừa nói vừa cười.
Anh nói với lũ trẻ: mỗi đứa
ăn hai cây. Có đứa nói: it quá bác ơi, ba cây đi. Anh bảo: còn lần sau nữa.
Người bạn anh hỏi:
- Có gì mà vui thế. Cho tao
góp vui với.
Anh kể, và đem ra cho người
bạn thấy những vỏ đạn mà lũ trẻ kiếm được trên ngọn đồi có cái lô cốt và những
vòng kẽm gai gỉ kia. Người bạn nhìn những vỏ đạn, cũng như anh, lật đít những
vỏ đạn xem rôi nói: tụi bây đừng đi lượm vỏ đạn nữa, nguy hiểm lắm, chết bỏ
mạng đó mấy con. Nếu thích ăn cà rem, tao cho. Nhưng phải chờ tới ba ngày sau,
tao mới quay trở lại cái làng này. Có đứa hỏi:
- Sao lâu vậy bác?
- Tao phải qua những làng
khác để bán chứ?
- Bác cho tụi cháu ăn mà có
lấy tiền không?
- Có chứ, nhưng rẽ hơn. Lấy
vốn.
- Tụi cháu đâu có tiền.
Có thằng nói: như vậy tụi
cháu phải đi kiếm vỏ đạn để bán cho bác này rồi. Lũ trẻ chỉ anh. Anh kí đầu một
đứa. Không đi nữa, để tao mua cho ăn.
Cà rem, cái món ăn hấp dẫn
của bọn trẻ con. Có lẽ không chỉ cho đám trẻ con thành phố, mà còn hấp dẫn cho
những lũ trẻ con thôn quê nữa. Anh nhìn người bạn ngày nào và nói: tội cho lũ
trẻ ở đây. Cái tiếng kêu leng keng của cái chuông đồng của ông đã kích thích
hạch nước miếng thèm ăn của bọn chúng rồi. Có điều, tôi với ông làm sao để cho
tụi trẻ trong làng tôi đừng đi nhặt ba cái thứ giết người mà chiến tranh để
lại. Chết tội lắm như thầy giáo Nhẫn trong làng tôi. Người bạn trầm ngâm. Ừ
nhỉ, có lẽ tiếng kêu leng keng của chiếc chuông đồng của tôi, giúp ông làm được
việc này. Không vô ích đâu./.
Phạm Văn Nhàn
Amarillo 2009
4 2 3