S Â M T H Ư Ơ N G
M ộ t t á c p h ẩ m
n g h ệ t h u ậ t
Thân yêu tặng các bạn tôi,
Nhà hàng Continental trên đường Tự Do, nằm giữa trung tâm thành phố lúc này thật nhộn
nhịp. Các phóng viên, đại diện các hãng
thông tấn báo chí và truyền thanh, truyền hình quốc tế, phần lớn
có thói quen tụ tập ở đây để vừa ăn uống
vừa trao đổi tin tức mỗi khi có mặt
ở Sài Gòn. Sau đó họ túa đi khắp các
điểm nóng của chiến cuộc. Những ngày này tình hình chiến sự thật sự đang sôi
động, những trận chiến đẫm máu chưa từng
thấy đang diễn ra ở Đông Hà-Quảng Trị giữa hai bên nhằm mục tiêu chính trị, giành lợi thế trên
bàn hội nghị ở Paris đang ở vào giai đoạn cuối.
Ở góc trong cùng, đạo diễn Phú Văn đẩy tập hồ sơ đến trước
mặt tôi :
- Nếu cậu đồng ý hợp tác với tôi, cậu có thể ký vào bản hợp
đồng và hồ sơ bảo hiểm tôi đã chuẩn bị
kỹ.
Tôi đặt bút xuống ký, không
đọc qua một chữ nào trên trang
giấy. Ông Phú Văn cũng không quan tâm đến thái độ của tôi, ông nâng ly Cognac
lên môi uống cạn, nói tiếp:
- Tôi biết cậu là một nhà quay phim có tài. Nhưng để có được
một tác phẩm nghệ thuật, tôi có những đòi hỏi khắc nghiệt hơn nhiều với chính
bản thân tôi, cũng như những cộng sự của tôi.
Ngừng một lát, ông hỏi:
- Cậu có ý kiến gì không?
Tôi nhìn ông, lắc
đầu:
- Tôi sẽ cố gắng làm đúng điều ông yêu cầu. Tôi cũng mơ ước
thực hiện một cái gì đó có thể gọi là
nghệ thuật.
- Như vậy, chúng ta đã có chung một mục đích. Những vấn đề
còn lại, nếu có, tôi cho là không quan trọng.
Như sợ ông Văn hiểu
sai hay cố tình hiểu sai tinh thần của
cuộc hợp tác, tôi nói như để giải thích:
- Trước hết, tôi không chỉ là một chứng nhân. Đối với tôi,
hình ảnh là hành động. Ông thừa hiểu tôi
muốn bày tỏ và người ta chỉ bày tỏ khi có ước vọng thay đổi.
Khi nói ra xong, tôi hối hận, vì có cảm giác ông chẳng hề quan tâm đến điều tôi vừa nói.
Hình như ông đang tập trung vào một điều gì đó, nhưng giọng ông lại như ra lệnh:
- Bây giờ, cậu về nhà chuẩn bị, trong vòng nửa giờ nữa tôi sẽ đến đón cậu ra thẳng phi
trường. Chuyến bay của chúng ta sẽ cất cánh vào lúc 10 giờ 45.
Tôi sốt ruột nhìn ra cửa, rồi lại nhìn đồng hồ. Có lẽ Maggie
không đến được, tôi đành đứng dậy bước ra. Vừa đến cửa thì Maggie Bancoft bước
vào. Tôi đã quen với Maggie mấy năm trước. Lần đầu chúng tôi gặp nhau, cô mới học năm thứ ba khoa Báo chí Đại học West Virginia. Cô có người anh trai
vừa tốt nghiệp Quản trị Kinh doanh tại Syracuse University, New York, bị gọi
quân dịch. Đến Việt Nam, mới tham dự cuộc hành quân lần đầu đã bị chết trận, xác bỏ lại ở chiến
trường Tây Ninh. Maggie đến Việt Nam để thực tập, nhưng đồng thời cô cũng muốn
tìm tung tích của anh cô. Trong khi tôi cùng đám bạn ở dãy nhà sau của Tổng
Hội, đang phân công viết bài cho số báo Sinh Viên mới thì cô bước vào. Cô hỏi
tên tôi và trao lá thư của một người
bạn, nhờ tôi giúp đỡ, hướng dẫn cô khi cần. Tôi ngỡ ngàng vì đôi mắt nâu sậm
quá đẹp của cô. Cô kiên nhẫn ngồi bên ngoài hành lang chờ cho đến khi tôi xong
công việc.
Trong buổi gặp gỡ hôm
đó, ở một quán nước bên bờ sông, cạnh công trường Mê Linh, bến Bạch Đằng,
Maggie đã nói với tôi bằng một giọng nghẹn ngào, pha lẫn chút phẫn nộ về cái
chết của người anh trai, về nỗi đau của mẹ cô, về phong trào chống chiến tranh
Việt Nam và sự khủng hoảng niềm tin của
giới trí thức Mỹ.v.v…
Sau lần đó, tôi không có dịp gặp lại cô, nghe nói cô trở về
Mỹ tiếp tục học. Gần hai năm sau, bất ngờ tôi nhận được một lá thư của Maggie ở
địa chỉ cũ của tôi, cô viết:’’ Sau khi tốt nghiệp, tôi đã may mắn được nhận vào
làm việc cho New York Times. Chính ở đây tôi mong muốn trở lại Việt Nam, hình
như Việt Nam có một sức mạnh vô hình nào đó luôn cuốn hút tôi, không thể cưỡng
lại được. Nhưng trước tiên, tôi không thích chiến tranh, đặc biệt chiến tranh
Việt Nam do chính quyền nước tôi tiến hành. Trong khả năng của mình, tôi muốn
có cơ hội nói cho nhân dân tôi biết tất
cả sự thật, để bớt đi những cái chết không đáng chết như trường hợp của anh tôi. Còn anh, hiện nay anh đang làm gì, nghĩ gì về cuộc chiến tranh
trên đất nước anh?’’. Sau khi đọc xong thư, tôi đã viết cho cô:’’ Tôi rất vui
khi nhận được thư của Maggie và hy vọng được gặp lại cô ở Việt Nam. Tôi muốn
trả lời câu hỏi của cô, mà đúng ra để trả lời cho chính tôi. Thú thật tôi vẫn
chưa chọn được cho mình một thái độ dứt khoát.Phải chăng tôi là một kẻ ngụy
tín?…’’. Trong thư, tôi không nói gì về những thay đổi của tôi. Sau khi tốt
nghiệp Đại học Văn khoa, tôi đã bỏ dạy học và viết báo để theo học một khóa
quay phim. Mãn khóa tôi được gửi đi tu nghiệp ở Paris. Trở về, tôi chính thức
làm việc tại Trung Tâm Quốc Gia Điện Anh. Công việc ở đây, ít ra đã không trực
tiếp bắt tôi cầm súng. Tôi không muốn bắn vào người anh em tôi bên kia chiến
tuyến; cũng như tôi không muốn ngã xuống
trước họng súng của họ. Ngoài công việc được giao phó, thỉnh thoảng tôi cộng
tác với một vài hãng phim ngoại quốc, nhưng tôi vẫn luôn ấp ủ thực hiện những
tác phẩm nghệ thuật của tôi, những phim tài liệu thể hiện nỗi đau của đồng bào tôi đang phải gánh chịu trong cuộc
chiến tranh tàn khốc này.
Tháng 11.1971, Maggie quay lại Việt Nam với tư cách là một
phóng viên chiến trường của báo New York Times, theo như ước nguyện của cô.
Chúng tôi gặp nhau một vài lần vì công
việc, nhưng chỉ thực sự hiểu và cảm
thông nhau sau chuyến đi Lộc Ninh hai tháng trước. Lằn ranh giữa cái sống và
cái chết đã đưa chúng tôi đến gần nhau hơn.
Maggie vừa từ Quảng Trị về được hai hôm, có lẽ cô bận viết
bài nên hai đứa tôi không gặp nhau. Nhưng tôi hiểu chuyến đi sắp tới sẽ có
nhiều hiểm nguy chờ đợi tôi, nên tôi muốn được nhìn thấy Maggie, muốn nói với
cô một điều gì đó trước khi lên đường. Tôi điện thoại cho cô. Hẹn cô đến đây.
Tôi chưa nói cho Maggie biết tôi đã nhận lời hợp tác đi Quảng Trị với ông Phú
Văn.
Vừa nhìn thấy tôi, đôi mắt
Maggie mở to rạng rỡ :
- Em vừa phải chuyển bài phóng sự mặt trận Quảng Trị của em
về tòa soạn ở New York. Sao anh hẹn em ra đây mà lại bỏ đi? Chúng ta có thể
cùng uống cà phê được không?
- Cám ơn Maggie! Anh phải chuẩn bị để ra phi trường.
- Anh đi đâu? Sao lúc nãy anh không nói?
- Quảng Trị !
- Quảng Trị? Em mới ở đó về, bây giờ đến lượt anh đi sao?
- Ông Phú Văn vừa cho anh biết.
Bất ngờ, Maggie nắm chặt lấy tay tôi, một thoáng lo âu trong
mắt cô, nhưng trên môi vẫn nguyên vẹn nụ
cười duyên dáng và tự tin. Cô cố gắng làm ra vẻ tự nhiên:
- Hãy mang về cho em xem những thước phim của anh quay ở đó!
Nhìn đôi mắt màu nâu sậm của Maggie, đọc được nỗi lo lắng mà
cô cố che giấu, tôi nói chỉ đủ cho Maggie nghe:
- Anh sẽ vô cùng hạnh
phúc, nếu Maggie có mặt trong buổi chiếu ra mắt đó.
Nói xong, tôi quay người hấp tấp bước ra khỏi nhà hàng. Tôi
biết chắc rằng sau lưng tôi một đôi mắt đang dõi theo. Tôi thật sự không dám
nhìn những giọt nước long lanh chực chờ trào ra trên khóe mắt đó.
Khi đèn báo hiệu chuyển xanh, tôi dợm chân định bước nhanh qua đường tới chỗ đậu xe. Bỗng giật nẩy mình
lùi lại, một chiếc xe GMC bám đầy bụi đỏ vụt qua. Một luồng gió tanh
tưởi thổi hắt vào mặt, làm tôi lợm giọng
muốn ói.
Chiếc DC-6 Hàng Không Việt Nam cất cánh rời phi trường Tân
Sơn Nhất đi Huế. Từ trên cao, tôi đưa
mắt nhìn qua cửa kiếng máy bay, bên dưới là những cánh đồng bỏ hoang, những
sông lạch chảy ngoằn ngoèo, những hố bom
lốm đốm trên mặt đất, những cột khói trắng vật vờ trôi… Nhìn sang bên cạnh, đạo
diễn Phú Văn đang chăm chú đọc báo,
những tờ báo phát hành từ chiều hôm trước mà có lẽ ông chưa kịp đọc. Hình như
lúc nào trông ông cũng có vẻ tất bật, ngay cả khi ông chẳng làm gì cả. Thực sự,
cho đến giây phút này tôi vẫn mơ mơ hồ hồ, chưa hiểu lý do tại sao
tôi nhận lời cùng ông ta ra Quảng Trị quay phim. Ông
đã không nói cho tôi biết nội dung cụ thể. Thực ra,
tôi cũng không mấy chú ý đến những điều
ông nói. Tôi đã tình cờ nghe một vài đồng nghiệp nói ít
nhiều về ông. Ông là một đạo diễn độc lập, có quốc tịch nước ngoài, hợp tác với
nhiều hãng phim và truyền hình lớn. Tên tuổi ông được báo chí và giới làm phim
thế giới đánh giá cao bởi những thước phim mang ý nghĩa sâu sắc và giàu tính
hiện thực. Hình như ở bất cứ đâu trên khắp thế giới cũng có dấu chân của ông
đặt đến. Nhưng có điều gì nơi ông đã làm tôi
không thích tiếp cận hoặc muốn
hợp tác. Song tôi thật sự không hiểu đó là điều gì. Khi ngỏ ý mời
tôi cộng tác, ông chỉ cho tôi biết
nhà quay phim đi chung với ông đã bất
ngờ trở về nước vì vợ anh ta bị
tai nạn xe hơi.
Mấy tuần qua, báo chí
Sài Gòn tường thuật về những trận
chiến đẫm máu nổ ra ở Đông Hà - Quảng Trị, nơi tôi sắp đặt chân
đến. Nhưng không phải vì gian khổ hay vì cái
chết đe dọa mà tôi phân vân trước lời đề nghị của ông. Ngược lại, tuổi trẻ
và máu nghề nghiệp luôn đẩy tôi tới
những điểm nóng. Càng khốc liệt tôi càng bị hút vào, không cưỡng được. Bằng chứng, tôi vừa từ mặt
trận đường 9 Nam Lào, từ chiến trường Charlie, địa danh của một đỉnh núi gần
thị trấn Kontum trở về. Có một điều chắc chắn, tôi đã không
nhận lời ông vì số tiền được ký kết trong bản hợp đồng - tất
nhiên là cao hơn rất nhiều lần so với đồng lương và phụ cấp hằng tháng của một
công chức như tôi- đó là chưa nói tới số
tiền bảo hiểm trong trường hợp xãy ra điều gì bất trắc với tôi.
Dòng suy nghĩ của tôi
bất ngờ bị cắt đứt khi cô tiếp viên hàng không nhắc tôi cài lại dây an toàn.
Máy bay đang chuẩn bị đáp xuống phi trường Phú Bài. Tôi cảm thấy bối rối khi ngước lên tình cờ bắt gặp
nụ cười trên môi của cô tiếp viên. Nụ cười gợi cho tôi nhớ lại khuôn mặt của cô gái ở
một làng quê vừa thoát ra khỏi trận giao tranh ở Xuân Lộc. Cô bước ra, trên cái
nền đỏ rực của biển lửa sau lưng, nụ cười thoáng ánh lên trong mắt, trên môi,
và mái tóc dài bay ngược trên bờ vai. Cô đẹp quá, thánh thiện quá, nhưng chỉ
xuất hiện trong khuôn hình của tôi có mấy giây, nụ cười trên môi cô vụt tắt, cô
gục xuống bởi một mảnh bom xuyên qua người. Đoạn phim này tôi vẫn chưa sử dụng,
để dành dựng nó cho mở đầu một phim mà
tôi đang tìm kiếm ý tưởng.
Sau khi kiểm tra lại máy móc, đồ nghề lần cuối tôi
leo lên chiếc xe Citroen cà tàng mà ông Phú Văn mượn hay thuê của ai đó,
và tự mình cầm lái. Trên mặt kiếng trước
của xe, ông không quên dán chữ PRESS thật rõ. Chúng tôi lên đường đi Quảng Trị.
Tôi nhìn lên mặt đồng hồ: 13 giơ, 37 , ngày 17.5.1972.
Khi xe chạy qua cầu Trường Tiền, tôi chợt hiểu ra một điều, có lẽ một trong những lý do
thúc đẩy tôi nhận lời theo ông Phú Văn
ra đây, nó hoàn toàn không mang
tính nghề nghiệp. Tôi cứ tưởng tôi
không quan tâm đến Huế, không muốn nhắc tới Huế. Nhưng trong tâm thức tôi vẫn
khát khao muốn nhìn lại Huế. Huế vẫn là nỗi nhớ, là niềm đau trong lòng tôi.
Những tà áo trắng bay bay của các nữ sinh Đồng Khánh trong gió mỗi sáng mỗi
chiều tôi đi qua trên đó thuở nào đã luôn khuấy động tâm hồn tôi, chìm sâu
trong vô thức.
Qua các ngả đường, ở đâu cũng thấy quán ăn, tiệm nước, vẫn
đông đúc người qua kẻ lại. Nhưng sao khuôn mặt của Huế có vẻ như thất thần, mất
máu. Xe chúng tôi chạy giữa con đường thẳng tắp quen thuộc với hai hàng cây
cao, cành lá xanh, hoa phượng vỹ đỏ rực, mặt nước sông Hương loang loáng màu
bạc trắng. Tôi nhớ khi còn học ở Quốc
Học, đã bao nhiêu lần tôi lang thang trên con đường này, đứng dưới chân chiếc lư nhìn
mưa bay trên sông, phía sau là cầu Trường Tiền mờ mờ ảo ảo. Bây giờ, cầu
bị đánh sập đi mấy vài chưa kịp sửa, chiếc cầu mới dựng lên, án ngữ mất tầm
nhìn, như một bức tranh có một lỗ hổng thật lớn. Tuổi trẻ của tôi cũng bị cuốn
đi trong cơn lốc của chiến tranh.
Tới An Lỗ, tôi bắt đầu cảm nhận được thế nào là cái nắng
nóng và những ngọn gió nồm nơi vùng đất khắc nghiệt này quất lên da mặt rát bỏng. Mặt đường nhựa sáng
loáng như những vũng nước ảo giác giữa sa mạc, là đà bốc khói. Hai bên đường
chỉ có cát và cát, cây cối khô héo, hút
tầm mắt nhức nhối một màu bạc phếch, nghèo đói, khô cằn… Nhưng sao dân chúng
vẫn bám vào đây để sống, để hiện hữu. Cái gì đã níu giữ họ? Vùng đất này không
chỉ khắc nghiệt bởi thiên nhiên nóng
cháy, bởi giông bão cuồng nộ, mà còn hứng chịu nhiều hơn bất cứ đâu lượng bom
đạn của cuộc chiến tranh dai dẳng này.
Qua khỏi cầu Mỹ Chánh không xa, chúng tôi bị chận lại bởi một trạm kiểm soát quân sự, do một
toán cảnh sát và quân cảnh phối hợp điều hành. Những cuộn rào kẽm gai chắn
ngang đường. Ông Phú Văn cho xe ngừng
lại trước trạm, xuống xe, nói với viên trung sĩ
đứng giữa toán lính, tất cả đều
đội nón sắt, mang súng và đeo phù
hiệu:
- Các ông có thể cho phép chúng tôi
qua. Chúng tôi là những người làm phim.
Viên trung sĩ nhìn ông Phú Văn, lắc đầu:
- Chúng tôi được lệnh không cho bất cứ một ai đi qua đây, vì
trước mặt là vùng chiến sự.
Giọng ông Phú Văn vẫn bình tĩnh:
- Dù biết là nguy hiểm, nhưng chúng tôi không thể không đi.
Bất ngờ, một chiếc xe Jeep từ đằng sau chạy nhanh tới và thắng
lại rất gấp. Từ trên xe một trung úy
quân cảnh, người cao lớn, bước xuống, đưa mắt nhìn những thuộc cấp:
- Chuyện gì?
Viên trung sĩ quay về phía ông Phú Văn:
- Trình trung úy, ông này…
Không đợi trung sĩ nói hết câu, ông Phú Văn bước tới
đưa giấy phép và thẻ báo chí cho viên trung úy. Anh ta cầm lên đọc, đưa
mắt nhìn ông Phú Văn như cân lượng đối tượng của mình là ai, rồi nhìn về phía
tôi đang ngồi trên xe. Xong anh ta quay lại hỏi ông Phú Văn:
- Ông là đạo diễn Phú Văn?
- Vâng!
- Ông có biết trước mặt ông là một biển lửa?
- Tôi biết! Điều đó
lại cần thiết cho công việc của chúng tôi hơn là một vùng đất yên tĩnh.
- Nhưng ông không thể
qua được!
Ông Văn làm ra vẻ ngạc nhiên:
- Tại sao? Với tư cách là một nhà báo tôi có quyền đến bất
cứ đâu.
Viên trung úy nhìn ông Phú Văn, mỉm cười:
- Tôi lập lại, ông
không được phép đi qua đây!
Giọng ông Phú Văn có phần gay gắt:
- Tôi muốn biết lý do tại sao?
Viên trung úy vẫn từ tốn:
- Tôi không cần giải thích
với ông.
- Trung úy có thể cho tôi đi qua hay buộc tôi phải nói thẳng
việc này với Tổng trưởng Hoàng Đức Nhã
hoặc tướng Trần Văn Trung, Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị?
Viên trung úy cười khẩy:
- Ông muốn nói với ai, đó là quyền của ông! Ở đây, tôi là người chịu trách nhiệm…
- Trung úy dám cản trở…
Làm như không nghe, viên trung úy thản nhiên đi thẳng vào
trạm gác, bỏ mặc ông Phú Văn với nỗi phẫn hận. Nhưng ông cố đè nén cơn tức
giận, mặt ông đỏ bừng, đôi chân ông run run tưởng chừng đứng không vững. Ông
hiểu không thể tranh luận, hoặc viện bất cứ lý do gì để có thể thay đổi được quyết định của viên
trung úy. Ông lẳng lặng bước lên xe.
Không nói một lời nào, ông mở máy cho xe
quay trở lại con đường cũ.
Viên trung úy nhìn xe
ông Phú Văn vọt đi, mỉm cười nói với đám
thuộc cấp:
- Thật ra, chẳng có chỉ thị nào cấm cản ông ta hết, nhưng
nhìn cái bản mặt ông ta tao thấy ghét, làm khó chơi. Nhưng với loại người
như ông ta không gì cấm cản được đâu!
Đến một ngả ba, ông Phú Văn rẽ trái, chạy vào con đường đất,
lác đác một vài ngôi nhà tranh xiêu vẹo. Giọng ông Văn vẫn chưa hết hậm hực:
- Hắn cứ tưởng hắn không cho phép thì tôi không biết tìm đường đi tiếp sao? Chúng
ta chỉ cần đi đường vòng rồi bọc lại. Bọn chúng lấy đâu ra người để có thể kiểm
soát tất cả các ngả đường.
Khi xe đã trở lại trên
đường quốc lộ, tôi xoay người ra phía
sau, mở va li sắt lấy chiếc camera cầm lên tay, gắn phim vào máy, kiểm
tra ống kính, rồi đặt máy lên đùi, một
thói quen cố hữu của tôi. Tôi có cảm giác Ông Phú Văn đang quan sát hành động của tôi, nhưng mắt
ông vẫn hướng về phía trước, giữ chặt tay lái:
- Tôi muốn hỏi điều gì thúc đẩy cậu chọn nghề quay phim?
Không bất ngờ trước
câu hỏi của ông Phú Văn,tôi đáp:
- Tôi đã từng viết báo, nhưng rồi tôi cảm nhận được
rằng chữ viết không thể có sức mạnh bằng hình ảnh.
Ông Phú Văn im lặng một lát rồi nói, nhưng hình như không để nói với tôi:
- Tôi không cần
biết nghệ thuật có vĩnh cửu hay
không, nhưng ít ra sự hiện hữu của chính mình trong đời sống cũng là điều quan
trọng.
Theo hướng Bắc trên quốc lộ, tiếng bom đạn dội lại càng lúc
càng gần. Chạy được khoảng mười mấy cây
số trong cái nóng gắt, cháy bỏng của mùa hè, đã thấy xuất hiện những toán người
chân trần lũ lượt bồng bế, gồng gánh chạy ngược chiều, đổ vào Huế, trốn khỏi
nơi chiến sự tìm con đường sống.
Tôi nâng máy lên ngắm và bấm máy ghi nhận những hình ảnh
đang diễn ra trước mắt. Những hình ảnh gần như rất quen thuộc đối với tôi. Tôi
đã bắt gặp trên mọi nẻo đường, những nơi chiến sự nổ ra. Nhưng đối với tôi, nỗi
đau khổ của những con người đang bỏ ruộng làng, nhà cửa đó trên nét mặt như còn
rất mới, rất riêng, và chắc chắn không ai giống ai, không có nỗi đau nào giống
nỗi đau nào. Trước những cảnh tượng đó, tôi cứ luôn muốn ghi vào ống kính, mà
thật ra nó đang ghi khắc trong tận cùng trái tim dễ vỡ của tôi.
Đến một khúc quanh, chiếc xe
đang chạy bỗng có tiếng rít lên như xé màng nhĩ. Một quầng lửa đỏ chói
bùng lên. Một tiếng nổ long óc. Mặt đất chao đảo. Không gian méo lệch. Rồi cái
gì đó nóng bỏng, rực lửa, nhọn hoắt, và tung tóe đập vào mặt. Trong phút chốc,
tôi bị ném vào một khoảng trống tối đen và lơ lửng, hoàn toàn không có khái niệm về thời gian, về cái sống,
cái chết..
Khi mở mắt ra, tôi vẫn còn cảm giác tức tức ở ngực. Tấm
kiếng trước mặt đã bị những mảnh bom phá vỡ. Quay sang ông Phú Văn, tôi bắt gặp
cái nhìn của ông về phía tôi. Tôi lên
tiếng trước:
- Ông có sao không?
Ông Văn mỉm cười gượng gạo, khuôn mặt có phần nhợt nhạt
nhưng vẫn toát ra một nghị lực đặc biệt. Điều đó làm tôi cảm phục ông.
- Không! Còn cậu?
Tôi đưa tay vuốt lại mái tóc, rồi mỉm cười:
- Tôi còn nhiều nợ nần, nên không chết ở đây được.
- Tốt! Để tôi khởi động xem thử xe có còn chạy được nữa
không. Nếu không trục trặc thì chúng ta đi tiếp.
Xe tiếp tục chạy về phía Hải Lăng, vượt qua trên đoạn đường
dài lỗ chỗ những hố bom, những xác người vương vãi, những chiếc sọ trắng hếu
vất vưởng. Bất ngờ ông Phú Văn cho xe ngừng lại. Phía trước, ngay trên mặt
đường nhựa có những ụ cát như những chiếc nón, những nấm mồ, cách khoảng vài ba
mét một ụ, có đến mấy chục ụ. Tôi ngạc nhiên chưa hiểu chuyện gì. Ông Phú
Văn thản nhiên bước xuống xe và quay
lại nói với tôi:
- Ở dưới những ụ cát đó có thể là mìn, hoặc chỉ để nghi
binh.
Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên:
- Mìn?
Ông Phú Văn không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi:
- Bây giờ , cậu chuẩn bị đặt máy ở góc bên dưới , ống kính chiếu thẳng về phía ụ
cát cuối cùng. Khi nào tôi ra hiệu quay thì cậu bấm nút tự động cho máy chạy là được.
Ông Phú Văn vừa nói dứt
câu thì ở phía trước, trên bầu trời xuất hiện khoảng mười mấy chiến đấu cơ gầm
thét bay lượn, tiếp theo là những tiếng nổ dữ dội, những cột khói như những hình nấm khổng lồ bốc cao, thật
gần.
Ông Phú Văn lên tiếng thúc giục:
- Cậu làm nhanh lên !
Dù chưa hiểu ông muốn quay những gì, nhưng tôi lập tức kéo
cái va li sắt ra khỏi xe, vác lên vai nhảy xuống bờ, chạy đến vị trí ông đã
dặn, sắp đặt chân đứng, đặt máy quay, kiểm tra ống kính. Khi mọi chuẩn bị coi
như hoàn tất, tôi rút chai nước uống một
ngụm, rồi quay lại hỏi ông Phú Văn:
- Chúng ta sẽ quay gì đây, thưa ông?
Ông Phú Văn mỉm cười, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Không phải cậu muốn có những thước phim sống động đó sao? Tuy nhiên, nghề của chúng ta cũng phụ thuộc vào ân sủng của Thượng Đế.
Không biết hôm nay chúng ta có may mắn không đây?
Vừa nói ông vừa đến bên máy quay, đưa mắt nhìn vào ống kính,
hình như ông muốn kiểm tra lại máy móc lần cuối. Tôi đang định nói với ông một
điều gì đó mà chưa biết mở lời như thế nào. Bất ngờ, phía cuối đường những âm
thanh náo loạn dội lại. Một chiếc xe khách, tôi nhìn kỹ nó giống như một chiếc
xe khách xuất hiện trên mặt đường, trên xe chất đầy người, những người dân chạy
loạn, có lẽ họ từ Hải Lăng vào; ngoài những người ngồi chật cứng trên nóc,
những người khác đeo toòng teng vào thành xe và cánh cửa. Tôi hoảng hốt khi nhận ra chiếc xe chạy
thẳng về phía những ụ cát. Không kịp suy nghĩ, tôi bỏ máy chạy về phía chiếc xe
khách đang trườn tới, đưa hai tay ngăn và hét lên:
- Ngừng lại! Ngừng lại! Nguy hiểm… Không nên chạy qua đó!
Nhưng ông Phú Văn đã chạy theo, nắm tay tôi kéo trở lại:
- Cậu làm gì vậy? Trách nhiệm của cậu là đứng sau máy quay!
Tôi quắc mắt nhìn ông:
- Thế ai trách nhiệm về cái chết của những người đi trên
chuyến xe đó?
Ông Phú Văn giận dữ đấm
thẳng vào mặt tôi một cú đấm như trời giáng. Tôi đau đớn bật ngửa người, ngồi
bệt xuống, hai tay chống lên mặt cát
bỏng, tê cứng không cử động được.
Ông nhìn tôi, gằn giọng:
- Tôi trả lời câu hỏi của cậu đây. Trách nhiệm về cái chết
của những người đó, chắc chắn không phải là trách nhiệm của tôi hay của cậu.
Cậu đừng có ảo tưởng. Đó là trách nhiệm của Thượng Đế, nếu cậu tin có Thượng
Đế hay ít ra là của hai phe đang đánh
nhau kìa. Tôi không làm chính trị, cũng không làm từ thiện. Tôi làm điều mà tôi
yêu thích, đó là nghệ thuật. Ít ra, trong cuộc đời tôi cũng có một công việc để
đeo đuổi, để tận tụy và tôi sẽ đi đến
cùng mục đích của tôi.
Nói xong, ông thản nhiên
lùi lại bên máy quay, đưa mắt vào ống kính điều chỉnh, rồi bấm lên nút
tự động của máy, ống kính vẫn chiếu thẳng về phía những ụ cát
cuối cùng trên đường nhựa.
Chiếc xe vẫn vô tình tiến tới, rồi những tiếng nổ dữ dội
liên tiếp vang lên, những tiếng la hét thất thanh. Tôi quay lại, chiếc xe đò bị
hất bắn lên, những xác người tung tóe văng ra, máu tươi vung
vãi.
Tôi nhắm nghiền đôi mắt không dám nhìn thêm cảnh tượng bi
thương đang diễn ra trước mắt. Ông Phú Văn vẫn kiên trì và chăm chú bên máy quay. Tiếng máy vẫn chạy rè rè xoáy vào
tai tôi. Bình thường tôi yêu những âm thanh
quen thuộc này lắm, bởi vì nó là mơ ước, là khát vọng và là cuộc sống
của tôi; nhưng sao hôm nay nó làm tôi đau đớn, phẫn nộ, đầu tôi căng nhức như bị động kinh. Trong cơn hốt
hoảng, trí óc tưởng như tê dại, tôi cắm
đầu chạy, bỏ mặc ông Phú Văn với những thước phim của ông, một tác phẩm nghệ
thuật đang hình thành.
Anh nắng chiều nhạt nhòa. Tiếng đạn bom vẫn tiếp tục gầm thét. Đứng giữa cánh
đồng cát trắng hoang vắng, chợt nhớ đến đôi mắt nâu sậm và lời dặn dò của
Maggie trước khi lên đường, tôi ôm mặt khóc như một đứa trẻ bị bỏ rơi không
biết đường về nhà.
Khi tôi bước vào nhà hàng Continental, Maggie đã ngồi sẵn
chờ tôi ở đó tụ bao giờ. Nhìn thấy tôi, nàng đứng dậy, đưa hai tay ôm chặt lấy tôi, như sợ vuột mất. Khuôn mặt
nàng như thể được chiếu sáng từ bên
trong bởi một nguồn sáng có sức cuốn hút
kỳ diệu. Tôi có cảm giác chưa bao giờ
nàng cảm thấy hạnh phúc như lúc này. Maggie rưng rưng nước mắt:
- Cám ơn Thượng Đế đã trả anh về cho em.
Không đáp lại lời nàng, tôi hôn lên đôi mắt của Maggie. Khi
đã ngồi xuống ghế nệm dài, bên một cái bàn nhỏ, Maggie đẩy tờ Washington
Post đến trước mặt tôi, đưa tay chỉ vào
cột báo ở trang nhất, bên phải. Tôi cầm tờ báo lên, đọc qua, bài viết hết lời
khen ngợi cuốn phim, cũng như tài năng của ông Phú Văn. Không ngạc nhiên, tôi
đặt tờ báo xuống bàn.
Maggie nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nàng nửa yêu thương,
nửa hờn trách:
- Em đã được mời xem
phim. Cuốn phim đã cuốn hút em, tạo ấn tượng rất mạnh đối với em và tất cả những người cùng xem.
Thật khủng khiếp! Em không tin nổi những hình ảnh đã quay được. Nhưng em thắc
mắc không biết làm cách nào các anh có
thể có được góc máy như thế, chiếc xe tung bổng lên khỏi mặt đất, những đôi
chân bị cắt ngang từ từ rơi xuống? Và tại sao anh vắng mặt trong buổi chiếu ra
mắt ?
Sự ân cần của nàng, sự dịu dàng của nàng khiến tôi xúc động.
Tôi nắm chặt lấy hai bàn tay xinh đẹp
của Maggie và muốn nói, nói tất cả, nhưng có cái gì đó đã làm tôi nghẹn ứ cổ
họng, nói không ra tiếng. Nhưng tôi
vẫn cố gắng hết sức, không kềm
giữ được:
- Maggie, anh đã trở về đây, nhưng anh không có thước phim
nào trong tay để tặng em như anh đã mơ
ước. Anh không thể xây dựng tác phẩm của anh bằng chính nỗi đau của người khác.
Maggie ngước lên nhìn thẳng vào tôi, mắt nàng long lanh như
sắp khóc. Bên ngoài, đường phố đã lên đèn, cơn mưa bất chợt đổ ập xuống. Maggie
và tôi nhìn nhau không nói. Bất ngờ hai
đứa bật dậy, nắm chặt lấy tay nhau hấp tấp bước ra khỏi nhà hàng. Đường phố
vắng tanh. Chúng tôi lặng lẽ đi trong
cơn mưa tầm tã…
Sâm Thương
22.12.2002
1 7 9