T U Ệ S Ỹ
Chiến tranh, tình yêu, hoài niệm
và truyện ngắn Võ Hồng
Vết thương đã khô và đóng vẩy.
Một phần sự sống bị tước đoạt, bị loại bỏ, một cách chậm chạp nhưng chắc
chắn. Một chút tình yêu, mơ hồ và khiêm tốn, cũng bắt đầu chớm dậy.
Như một thứ định mệnh phi lý, một khi đã đến, nó không chịu vô cớ ra đi; và một
khi ra đi, nhất định phải để lại vết hằn khổ nhục, một vết hằn năm tháng.
Đó là một thứ quà tặng mà chất liệu là sự tàn phá, sụp đổ và mất mát, không có
đền bù. Tình yêu cũng phi lý như chiến tranh, cả hai cùng ngoi đầu dậy từ
những phá phách hỗn loạn của một cơn giận mông lung, vô cớ và vô nghĩa.
cũng như một cành gai nhỏ, đâm vào da thịt, cấu xé da thịt, nhức nhối; ở đó,
tình yêu lớn dần cùng với mức độ trưởng thành của sự chết trên một phần da
thịt. Cho đến lúc phần đó được gỡ hẳn ra khỏi cái phần sống còn lại lớn
lao kia, được ném xuống cho lăn lóc với cát bụi vô nghĩa, và lạc loài, tình yêu
bỗng như rơi vào quãng trống mênh mông. Khuôn hình được tháo ra từng mảnh
và được cho vào ngọn lửa, để một quá khứ trở thành vĩnh cửu trong hoài niệm:
Lửa bừng lên. Đốt cháy những nụ cười. Đốt cháy những mơ mộng.
Xuyên qua ngọn lửa, nàng mường tượng thấy mình lùi lũi đi sâu vào rừng ngõ thâm
u, bí mật. Lá khô cựa mình dưới bước chân và ở trên cành có con sóc ngơ
ngác nhìn theo (Hoa Bươm Bướm, đoạn kết).
Đó là đoạn chót của lịch sử một vết
thương, mà ngày tháng đã làm khô và đóng vảy. Đó là cũng đoạn mở đầu cho
một quãng trống của hoài niệm. Hoài niệm sẽ chỉ là sự hiện hữu bất thực trong
sự trầm lặng của hư không. Tình yêu đã chen lấn để trưởng thành giữa
những cơn nhức nhối, bị níu kéo giữa sự sống và chết, nó “mỏng manh như một
cành hoa bươm bướm màu tím nhạt...Ở bãi đất hoang”, vùng đất của đe dọa
thường trực.
Khi tình yêu chưa hiện diện, nó lần
mò trong bóng tối của những dày xéo tàn bạo, không có sự rung động của bản
năng, mà nó chỉ có sự cân nhắc của trí thông minh. Nó chọn cách mạng để
làm thế giới cô đơn của mình. Làm cách mạng thì không thể yêu nước một
cách ngây thơ như đứa trẻ yêu cánh đồng rộng trước mặt. Làm cách mạng để
biết cách lấy thù hận và bạo động mà nuôi dưỡng tình yêu, để biết lấy sự chết
làm sự sống. Nhưng tình yêu vẫn mang cái chất phi lý; nó tựa mình vào cột
trụ chơ vơ của sự phản lý ngược ngạo. Cơn gió thoảng qua, một cọng lá khô
phiêu hốt bỗng bám vào cột trụ, một cách vô tư, dửng dưng, rồi lặng lẽ rơi
xuống... Cảm giác lành lạnh. Mất tất cả rồi. Tuyệt vọng
rồi.... anh hãy ôm vai... Và cái nhìn bỡ ngỡ, vòng tay ngại
ngùng, nhưng nụ hôn vẫn thắm thiết và kéo dài vô tư. Và vô tư vẫn kéo dài
mãi mãi. Chàng khờ khạo như mọi người đàn ông. (HBB & trích rải
rác). Bởi vì tất cả đều phi lý. Phi lý bủa rộng thành bóng
tối. Cũng là bóng tối của sự vô tư và dửng dưng đó. Con tàu chạy
với toa tàu lắc lư trong đêm tối như một con vật lao đầu xuống vực sâu tự
tử. Bóng tối, quá khứ hãi hùng, cô đơn trước cái chết đe dọa, câm nín như
sự câm nín của tình yêu. Trụ hành quyết, cái băng bịt mắt... Con
tàu sẽ phiêu lưu về đâu nữa? Nhưng những phiêu lưu thường đưa đến những ngẫu
nhiên. Và ngẫu nhiên, một bàn tay. Ngón thon và mềm. Một bàn
tay. Bám víu vào cuộc đời, đấu tranh với cuộc đời.... Sự ngẫu nhiên
và tình yêu, cả hai cùng lần mò trong bóng tối, như cánh chim đêm đi tìm chỗ
đậu lại. Đêm tối như bưng, và chàng nói như trong giấc mơ..., và một
dòng nước mắt len chầm chậm như cũng biết e lệ ngập ngừng. (HBB &
trích rải rác). Quả thực, tình yêu thì cô đơn như sao mai, nhưng sự
phi lý khổng lồ là một. Có những phi lý của tình yêu, và chỉ có một phi
lý của chiến tranh. Cũng như một dân tộc nhược tiểu phải trưởng thành
trong khổ nhục, phải chọn cái phi lý của chiến tranh, phải tồn tại trong sự tàn
phá điêu linh thống khổ; cũng vậy, tình yêu luôn luôn chọn vùng nào nhức nhối
nhất trong thân thể mà tồn tại và trưởng thành. Rồi khi dân tộc nhược
tiểu kia đã bước vào vùng có ánh sáng của độc lập và tự do, những anh dũng và
hy sinh được gởi lại hết cho bóng tối của núi rừng. Cũng vậy, tình yêu
vĩnh viễn là một sợi tơ trời trong trí nhớ.
Đó là một thứ tình yêu chỉ có trong
thế giới của hoài niệm. Nó có thể chọn một hình thức thích hợp để xuất
hiện trong văn chương. Tôi muốn nói các truyện ngắn của Võ Hồng.
Nơi ông, có lẽ có một tình yêu đã trở thành vĩnh cửu, đã muôn đời câm lặng được
chôn kín dưới lòng đất. Nó thấm vào các truyện ngắn của ông, làm chất
liệu, hoặc khi ngấm ngầm hoặc khi lộ liễu, dưới dáng dấp mệt mỏi, nhiều tư lự,
nhiều phán xét.
Truyện dài của ông phần lớn cũng chỉ
là những truyện ngắn được ráp lại. Có thể đây chỉ là cái nhìn phiến diện.
Nhưng tôi tưởng tượng rằng, nếu cắt riêng từng đoạn trong truyện dài của ông,
để chúng thành những đoạn biệt lập, chúng ta dẽ bắt gặp nhiều cái nhìn của một
người từng trải, khôn ngoan trong đời sống và khôn ngoan cả trong tình
yêu. Do đó, tác phẩm của ông mang nhiều chứng tích xã hội và thời
đại. Nhưng, nếu nhà văn chỉ ngồi kể lể những chuyện đời đi qua trước mắt,
dù bằng một giọng điệu trung thực đến mấy, vẫn không tránh khỏi tự gán cho mình
vai trò trạng sư của một thời đại. Ngôn ngữ loài người không thể chỉ là
phương tiện cho những tranh chấp và hòa giải. Mỗi người đều phải sống
bằng cái nhìn phê phán, và đau khổ vì phê phán - phê phán và bị phê phán.
Ngôn ngữ không thể chỉ là phương tiện cho sự phê phán.
Câu chuyện dài mà ông bố trí ít khi toàn
bích. Trong đó, thời gian thường bị xén nhỏ, đứt khoảng, y hệt như hơi
thở của một người mệt mỏi. Nếu chúng ta đặt riêng mỗi khoảng đứt đó thành
từng truyện ngắn, mỗi truyện sẽ là một hình ảnh nào đó trong toàn thể đời sống,
không cần nối kết tương quan mà y nhiên vẫn là chân diện mục của tất cả đời
sống.
Ở đây, xin lấy thì dụ từ truyện dài
Gió Cuốn. Truyện bắt đầu bằng vài trang sôi động. Những tiếng kêu
tuyệt vọng, những ngón tay bấu víu mệt mỏi, tất cả sẵn sàng cho một cơn gió
cuốn sẽ trỗi lên bất cứ lúc nào, lên đối mắt của con chim Á châu huyền bí êm
như nhung, thổi lên những sợi tóc đen bay phất phơ trên làn da màu ngà, lên đóa
hoa hồng mọc ở mảnh đất nhiều biến cố đau thương này. Gió cuốn tiếng kêu
tuyệt vọng đó vào một xã hội trụy lạc, bẩn thỉu, với những đồ phế thải của
ngoại quốc. Đó là chứng tích khổ nhục của thời đại chúng ta. Nhưng
khi tiếng kêu từ trong thâm tâm lặng lẽ đó hiện rõ với vóc dáng của một người
làm sở Mỹ, dẫn về một quãng đời đã qua, với gia đình, với chồng con, truyện bắt
đầu tỏ ra rời rạc. Sự đối chiếu giữa hiện tại và quá khứ không liên
tục. Vậy, có lẽ tốt hơn chúng ta phải tự cắt rời từng đoạn để đọc.
Cố nhiên, không phải vì thế mà chứng tích thời đại bị bôi xóa mất trong tác
phẩm. Tôi muốn nói, cốt cách văn chương của Võ Hồng biểu hiện qua các
truyện ngắn của ông hơn. Tuy nhiên, trên đây tôi đã mượn truyện dài hoa
Bươm Bướm để dẫn vào tình tự trong các truyện ngắn của ông.
Nếu cần chọn một môi giới, về hình
thức, giữa một truyện dài và truyện ngắn của ông, chúng ta có thể được đề nghị
chọn Dấu Chân Sa Mạc (tuyển tập truyện ngắn, Con Suối Mùa Xuân). So với
các truyện ngắn khác của ông, truyện này được viết tương đối dài, 40 trang chữ
nhỏ. Điển hình của một truyện ngắn được kết cấu tròn trịa. Nếu mở
rộng thêm chi tiết, hoặc thêm nhiều động tác, nhiều đối thoại và nhiều tình tự
cho các nhân vật, truyện có thể trở thành một truyện dài, với nội dung giản dị
thích hợp cho đề tài qui tụ chung quanh đời sống đồng quê Việt Nam. Cũng
như đa số các truyện ngắn khác của ông, Dấu Chân Sa Mạc xoay quanh một nhân
vật, với những tình cảm phức tạp và tế nhị. Tình cảm của người viết được
bày tỏ về nhân vật cũng phức tạp và tế nhị không kém. Nhân vật chính bị
đóng khung trong một thế giới cô đơn với những hiềm kỵ, xoi mói của người chung
quanh. Những thất bại ngẫu nhiên mà một thứ định mệnh nào đó, nếu chúng
ta không tìm ra danh từ tương xứng, đã vô tình giúp cho những người chung quanh
có cơ hội trả thù một cách vô cớ. Sự trả thù của họ cũng hiền lành như
đời sống thường nhật của họ. Bằng các lời đồn đãi thêu dệt, bằng cái nhìn
xỉa xói, tất nhiên không gây thiệt hại gì cho kẻ bị trả thù, nhưng thiệt hại
lớn nhất cho là sa mạc cứ lớn dần.
Trên tất cả, chính thời gian là định
mệnh ghê gớm nhất. Thời gian đã làm cho con gấu hung tợn đó bấy giờ đã
nhu mì. Vuốt đã hết bén rồi và khí huyết cũng không còn sung mãn
nữa. (Con Suối Màu Xanh - Dấu Chân Sa Mạc). Thời gian đến và tàn
phá tất cả những gì con người có, tài sản được tích lũy bằng những khôn ngoan
vật lộn với đời sống lần lượt ra đi vì tuổi già không dung chứa; sắc đẹp và
niềm kiêu hãnh của tuổi thanh xuân cũng lần lượt ra đi vì tuổi già không
chứa. Đó là hình ảnh đau thương và nhục nhã của cuộc đời người.
(Con Suối Màu Xanh, đã dẫn). Tác giả
cũng tự thấy mình đau khổ với nhiều ân hận như mình đã hùa với thời gian để trả
thù, chua xót và hối hận khi trong óc vụt có ý nghĩ rằng khuôn mặt, đó đã khác
xa với khuôn mặt người bình thường; đã đồng lõa với thời gian vì đã để cho tuổi
già, cho cái hình ảnh tiều tụy hôm nay nó cứ lấn át, tranh giành, chực đè
lên hình ảnh huy hoàng cũ. (Con Suối Màu Xanh, đã dẫn). Đem
hiện tại đau thương của nó mà chồng lên quá khứ của nó, đè bẹp quá khứ huy
hoàng của nó, dù sự thực là như thế, nhưng trong đời sống, chúng ta đã khéo lấy
sự thực đó để trả thù một người, bất kể lạ hay quen. Cô Ba Hường, nhân
vật chính của truyện, góa chồng sớm, giàu có và sang trọng nhất làng. Cô
ít hăng hái bàn chuyện lứa đôi của mình. Cô chỉ thích nói tới ruộng đất,
giá lúa giá nếp cao hay thấp, đập Tam Giang hay đập Đồng Cháy, nước lên nước
xuống mực nào. Nhưng khi người đàn ông góa vợ nhà ở sát vách cưới vợ, hôm
đám cưới tấp nập, nhà cô không thắp đèn, dãy lan can trước nhà cô đêm đó chỉ
còn là một khối bóng đen đặc sệt. Và sau đó, nét mặt cô Ba Hường chừng
như già đi. Cũng vẫn khuôn mặt đó không gầy ốm suy hao gì nhưng mà nhìn
lên thấy mất đi cái phần tinh anh rực rỡ, như một tấm gương đã mờ mờ nước
thủy. Giữa một khung cảnh đầy những cặp mắt tò mò, tình yêu cũng đơn giản
như đời sống của mọi người, nhưng tế nhị và cô đơn như muôn thuở của loài
người. Khi tuổi già đến và thời gian cướp mất thanh xuân, tình yêu không
còn là sự rung động tế nhị, mà là một bãi sa mạc mênh mông, không có ai để bàn
tính sau đó, không có ai để cân nhắc trước đó, trước mặt, sau lưng, bên phải,
bên trái đều là sa mạc... cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại lạc
lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư
ảo. Chặng đường cuối cùng của người lực sĩ đuối sức (sách đã dẫn, rải
rác).
Cuối cùng cô chết trong lặng lẽ,
không ai chứng kiến. Quả tình là chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng và
thoải mái nhiều hơn so với những chặng đường nhọc nhằn cam go mà cô đã đi mấy
năm gần đây khi già yếu và nghèo nàn, cô đơn và bị đời lạnh lùng hắt hủi.
Tình yêu và sự chết cũng cô đơn như nhau; khi cả hai cùng gặp gỡ, người ta mới
thấy sự cô đơn đó, và chỉ có thể thấy khi cả hai cùng đi vào thế giới im lặng
thiên thu.
Truyện điển hình thứ hai mà tôi muốn
nhắc đến, Những Bí Mật Của Anh Đỗ Cúc, (Vết Hằn Năm Tháng). Tình tự nội
dung không buộc chặt vào nhân vật chính, qua một bút pháp đặc biệt. Đó là
sự trải dài của câu chuyện, như một cách không cố ý. Có thể nói, đấy là
một mẩu chuyện ngắn không cần kết cấu, và người đọc dễ dàng theo dõi, một cách
thích thú, những đoạn văn dí dỏm một cách nghiêm trang. Anh Đỗ Cúc, nhân
vật chính, làm luận văn hay và viết thư tình cũng hay như một nhà văn viết tiểu
thuyết lãng mạn, tổng hợp cái lãng mạn văn chương đủ mọi phía. Anh không
cần thấy, không cần biết cây thùy dương trên bãi biển. Anh không cần biết
căn phòng của cô học trò mà anh mơ tưởng ra sao, cũng vẫn cho vào bức thư tình
được chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió.
Lớn lên, anh lấy vợ cũng bình thường và dễ dàng như làm luận văn ở
trường. Gia đình, vợ con ngăn nắp như bố cục của bài luận. Anh sống
không thắc mắc, không lựa chọn, chỉ theo một bố cục nào đó đã có sẵn. Nói
chuyện với những người như anh không phải dễ, nếu không tình cờ khám phá ra sự
bí mật của bố cục kia.
Phần lớn các truyện ngắn của Võ Hồng
đều được viết với bút pháp điềm tĩnh như mẩu chuyện điển hình này. Chúng
chỉ khác nhau về thắc mắc nào đó của người viết. Ông viết truyện ngắn như
một người khách qua đường, đi suốt một đoạn, khách ngồi lại nghỉ và thắc mắc về
đoạn đường đã qua, trộn lẫn một ít tình cảm hay tư lự và cân nhắc. Thời
gian cho các biến cố là một đoạn thẳng. Chúng kế tiếp nhau, tuần
tự. Trong một vài truyện ngắn khác, như truyện Dốc Hiểm Nghèo (Khoảng
Mát), thời gian cho các biến cố cũng đôi khi chạy theo một vòng tròn.
Nhưng chúng cũng xuất hiện theo tuần tự tiếp nối. Vì vậy, chúng ta thấy
kết cấu trong một truyện ngắn của Võ Hồng rất giản dị đó dễ gây cho người đọc
có cảm giác như một hoài niệm nhẹ nhàng và mông lung.
Chúng ta có thể được dẫn tới hoài
niệm về những hình ảnh của đồng quê Việt Nam. Đời sống theo nhu cầu tiến
bộ, mà các phương tiện của văn minh khoa học có thể cung cấp, trong cái thêm có
cái mất. Nếu anh Hoạt, nhân vật trong truyện ngắn Hãy Đến Chậm Hơn Nữa
(tập truyện Trầm mặc Cây Rừng), nếu đừng ra đời sớm những ba mươi năm, có lẽ
khoa học đã giúp anh thoát khỏi sự dày vò thân thể của chứng bệnh cùi.
Vào cái thời của anh, anh có thể nghe một tiếng chim tu hú vào đầu hè, ngửi một
mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên
nền trời sau cơn mưa... Những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng
của anh.
Thời gian, trong sự tiến bộ chung
của một dân tộc hay một xã hội, mang lại nhiều thịnh vượng và bảo đảm cho đời
sống theo đà gia tăng của các nhu cầu, nhưng đồng thời cũng làm vơi bớt những
niềm vui trong trắng ngây thơ của những ngày xuân êm đềm. Cái bàn ủi bằng
đất sét mà chú Ba cặm cụi nung để hy vọng ngày Tết có áo quần mới dĩ nhiên
không dùng được... An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời thơ ấu êm
đềm nay không còn nữa, có chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng
thôi. (Ngày Xuân êm đềm, tập truyện Lá Vẫn Xanh).
Hoài niệm tuổi thơ gắn liền với một
tình yêu quê hương mông lung. Yêu cánh đồng, yêu tiếng chim tu hú, những
con chích chòe nhí nhảnh chuyền cành, những con chiền triện mải miết tước lá
cau về làm tổ, các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn, khoai sáp. Lớp trẻ
lớn lên, đổ nhau về thành phố để tìm đường sống. Trưởng thành luôn luôn
đi đôi với mất mát.
Trưởng thành, và mất mát, người ta
có thể thành công trong nhiều phương diện, nhưng có một thứ thất bại lớn lao
không thể đến bù tương xứng. Đó là sự mệt mỏi. Sự mệt mỏi này đầy
trong các truyện ngắn của Võ Hồng. Nó có thể là sự khôn ngoan của một
người từng trải, biết cân nhắc sáng suốt về tình yêu. Nó có thể là câu
chuyện hằng ngày của những người láng giềng ở thành phố. Nó có thể là
chuyện của một người bị tòa đòi ra làm chứng. Các truyện ngắn rải rác
chung quanh đề tài này cũng thường cho chúng ta thấy cá tính của truyện ngắn Võ
Hồng.
Một truyện ngắn đặc sắc khác, với ám
ảnh kỳ lạ hiếm thấy trong đa số các truyện ngắn của Võ Hồng, ngoại trừ bút pháp
và tình tự không mấy khác. Tôi muốn nói truyện ngắn Lá Vẫn Xanh.
Truyện viết một nhân vật bị ám ảnh ngày tận thế, chỉ vì một mẩu tin ngắn gần
như không quan trọng và ít ai chú ý được đăng trên báo. Nỗi khổ tâm của
nhân vật chính là mọi người chung quanh có vẻ ngây thơ của họ và âm thầm đau
khổ trong cô đơn lặng lẽ với ám ảnh của mình. Truyện kết cấu không giống
như đa số các truyện khác. Câu chuyện ngày tận thế cũng được mọi người
bàn tán, ngay cả trong ngày Tết. Nhưng cuối cùng, để chấm dứt câu chuyện,
người ta vẫn chúc nhau một năm phúc thọ khang an. Ngày tận thế, dù là tai
họa khủng khiếp sẽ giáng xuống cho nhân loại, cuối cùng cũng chỉ là chuyện
phiếm. Riêng với nhân vật chính, nó không hề là chuyện phiếm. Người
ta nói xong rồi quên liền sau đó. Anh thì nhớ mãi và không ngớt đau
khổ. Anh chờ đợi, chỉ còn năm ngày, rồi bốn ngày, và cuối cùng, buổi sáng
thức dậy đánh răng, anh chuẩn bị cho ngày tận thế hôm đó. Anh đợi từng
giờ. Cho đến khi anh lên giường ngủ, và giấc ngủ cũng đến một cách bình
thường. Thật quả không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại.
Ngày hôm sau, anh thức dậy, vẫn như mọi ngày, nhưng thêm một câu nói giã từ:
Thế là hết tận thế. Quả thật, chúng ta cô đơn và đau khổ trong một thế
giới hãi hùng, mà bên ngoài mọi sự vẫn lạnh lùng trôi qua như thế ư ?
Truyện ngắn điển hình chót hết mà
tôi muốn nói trong bài này, đó là truyện.Tình Yêu Đất (trong tập truyện Vết Hằn
Năm Tháng)
Truyện bắt đầu bằng những động tác
hăng say của người yêu đất: Lão Túc. Thế giới bừng sáng và sôi động vì
tình yêu chân thành của người và đất. Truyện xoay quanh sự trưởng thành
của cuộc đời Lão Túc và sự trưởng thành của mảnh đất mà lão khai khẩn.
Bởi vì cuộc đời của lão cũng đơn giản như đất, nên lão dễ dàng nghe được những
vui mừng của đất, và do đó đất cũng rộng lượng bao dung đối với lão hơn cả mọi
người, đất hiểu lão hơn cả vợ lão, con lão. Ngày lão lên xã làm giấy khai
đất, lão thấy lòng rộn ràng bâng khuâng. Ai hỏi lão có phải ở dưới đất về
hay không, lão nghe bốn tiếng đó làm mát một nơi nào trong bụng lão... Ở
dưới đất về!... Đó là điệp khúc của một bài ca làm say sưa tâm hồn lão
như mới ngày nào đây, lúc còn thanh niên, lòng lão rung động theo câu hò điệu
hát huê tình... Và tối hôm đó, sau bữa cơm, lão bắc chõng ra nằm dưới
hiên, nhìn lên bầu trời lấm tấm sao... với tình yêu đất. Cho đến
khi lão bị rắn hổ cắn, trước giờ hấp hối, lão còn thốt lên được mấy tiếng về
mảnh đất của lão, miếng đất Gò Đình... Rồi nhắm mắt. Và truyện kết
thúc ngay sau đó.
Tình yêu đất của Lão Túc cũng là
tình yêu quê hương cụ thể của hầu hết nông dân Việt Nam. Yêu không trừu
tượng, và cũng nhiều đam mê nhiệt thành như mọi thứ tình yêu khác. Quê
hương không nhất thiết là chữ S hay chữ U. Nó là ruộng nương vườn tược,
là nơi gởi nắm xương tàn của cha ông mấy đời. Khi chiến tranh đến, một số
người bỏ lại tất cả, chạy về thành phố hay nơi nào có thể bảo đảm an toàn sự
sống. Nhưng cũng có những người quyết bám chặt lấy mảnh đất, chờ đợi cái
chết: Bà Sự ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò
má. Bỏ nhà cửa mà đi. Bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và
cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi đâu hết..., tôi muốn ngồi
yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết cũng được. Chết là gì? Nhắm hai con
mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay... (Bên Đập Đồng Cháy, tập truyện
Những Giọt Đắng.) Bà Sự không muốn theo bà con chạy giặc. Chồng bà, con
bà, những người thân thuộc của bà đã lần lượt bỏ đi, trở về với đất.
Nhưng hàng xóm bắt bà phải đi. Họ dọn giùm nhà cửa cho bà. Cài then
cẩn thận. Đoàn người chạy giặc đến đập Đồng Cháy. Bà Sự chợt nhìn
xuống lòng nước, soi thấy bóng mình... Hết rồi! Hết rồi! Không! Tôi không
đi đâu hết. Tôi đã mất hết cả rồi. Tuổi xuân xanh. Chồng
tôi. Con tôi. Chỉ còn đập nước này mà tiếng ào ào tuôn đổ không hề
thay đổi... Cho tôi ở lại. Không, xin cho tôi ở lại. Và Bà Sự
vụt bỏ chạy. Bà mất tích. Đoàn tản cư tìm kiếm, kêu réo bà, nhưng
bà mất tích. Đoàn tản cư chỉ còn năm người, hấp tấp, hồi hộp, im
lặng. Sau lưng họ, con đập Đồng Cháy vẫn đổ tuôn từng khối nước lớn,
tiếng dội ầm ầm ào ào, bọt tung trắng ngần, vỡ ra, quay cuồng rồi len lỏi chảy
giữa những tảng đá to màu xám.
Chiến tranh và tình yêu, một đằng là
ngọn lửa tàn bạo hủy diệt, một đằng là dòng suối ngọt, cùng đi đôi trong tương
quan biện chứng. Hoài niệm là một thế giới được nâng lên từ mâu thuẫn đó,
là vết thương đã khô và đóng vảy. Nhưng vết thương nằm ẩn kín trong vùng
nhức nhối nhất của thân thể luôn luôn rỉ máu, không hề khô và đóng vảy.
Lịch sử của vết thương chỉ khép lại cùng với những chung cục của lịch sử một
đời người.
TUỆ SỸ
Nguồn: hoavouu.com
1 4 9