HOÀNG KHỞI
PHONG
Kim Tuấn,
Những điều thấy trong giấc ngủ
Gửi hương hồn Kim Tuấn
... Và khi thức dậy
Tôi tìm thấy tôi
Và khi thức dậy
Tôi tìm thấy tôi...
(Thơ Kim Tuấn - Phạm Duy phổ nhạc)
Nhà thơ Kim Tuấn
1.
Tôi có thói quen dậy
sớm, nằm lơ mơ trên giường nghe tiếng những con chim ríu rít vọng vào từ ngoài
cửa sổ. Sáng nay 11-9-2003 không phải tiếng chim đánh thức tôi dậy, mà là tiếng
chuông điện thoại của Lữ Quỳnh. Giọng anh có vẻ ngần ngừ vì anh nghĩ đã đánh thức
tôi quá sớm, vài giây sau cái vẻ ngần ngừ mất đi, anh báo cho tôi biết Kim Tuấn
đã mất. Lữ Quỳnh qua đây khá muộn màng, anh giữ được những liên hệ với các người
bạn cũ còn ở trong nước, do đó anh luôn luôn là người thông báo tin tức của những
người viết văn, làm thơ giữa hai bờ biển.
Tin Kim Tuấn mất đến
với tôi cũng hệt như Pleiku đã bị động đất, đã bị trôi ra biển. Nhưng trong thực
tế chính là tôi đã trôi ra biển, chính tôi đã bị những cơn bão đời cuốn đi, cuốn
đi tới tận chân trời, trong khi Pleiku vẫn còn đó, còn mãi mãi với những đổi
thay chóng mặt. Đối với tôi Pleiku là Kim Tuấn, là Cao Thoại Châu, là Cao Xuân
Huy, là Nguyễn Bắc Sơn, là Thái Tăng An, Ngô Văn Đinh Hợi, Cam Nhị Thu, Thế
Vũ... cùng những người bạn thỉnh thoảng ghé thăm xứ gió bụi mưa mùa như Vũ Hữu
Định, Phan Lạc Giang Đông, Trần Quang Lộc, A Khuê, Nguyễn Mộng Giác... Cho dù
tôi có chỉ huy một đơn vị tại đây, song liên hệ giữa những người lính trong đơn
vị là một phần đời khác, có những ràng buộc khác với tương quan giữa những người
bạn làm văn nghệ.
Giữa năm 1970 tôi tới
Pleiku nhận nhiệm sở mới, trước đó ba năm khi mới in tập thơ đầu tôi quen Kim
Tuấn nơi nhà một người bạn. Chỉ là một cuộc gặp gỡ rất tình cờ rồi cả hai chúng
tôi cùng quên đi. Thời đó tôi chưa được ba chục, còn Kim Tuấn vừa mới qua khỏi
tuổi ba mươi. Chúng tôi còn quá trẻ và đầy sinh lực, có nhiều cách để phung phí
bớt sức lực của mỗi người, mà không nhất thiết phải vồ vập lấy nhau vì cùng làm
thơ, nên trong lần gỡ đầu tiên đó chúng tôi chỉ biết về nhau một điều duy nhất
là cùng làm thơ, và rồi ai về nhà nấy.
Kim Tuấn hơn tôi vài
ba tuổi, thơ của anh đã viên mãn, đã đầy đặn, được phổ nhạc bởi vài nhạc sĩ nổi
danh đương thời. Trong khi đó tôi là một con nghé mới nhú sừng, không hãm mình
trong kỷ luật quân đội, nhưng thận trọng trong cách giao tiếp với những người
làm văn nghệ trước tôi, bởi những lý do riêng biệt. Mặc dù biết Kim Tuấn đang ở
Pleiku, khi nhận đơn vị xong tôi không nghĩ tới việc phải tìm Kim Tuấn, bởi tôi
nghĩ nếu chúng tôi có duyên văn nghệ với nhau, không sớm thì muộn chúng tôi sẽ
gặp gỡ, sẽ làm chung với nhau một vài việc, sẽ đi chung một chuyến xe, sẽ ngồi
chung trên một con đò và cũng có thể sẽ không bao giờ gần nhau được. Tôi cũng
không ngờ Pleiku là nơi tôi ở lâu nhất trong suốt 13 năm quân ngũ, và cũng
chính tại đây tôi có những kỷ niệm văn nghệ mà tôi sẽ nhớ cho tới cuối đời.
2.
Đây là lần thứ hai
tôi nhận nhiệm sở mới tại Pleiku, nơi tôi đã bỏ mà đi sáu năm trước đó, vào năm
1964 khi thành phố này còn hoang vu hơn nhiều, mỗi buổi chiều người ta vẫn còn
thấy những đoàn người sơn cước gùi số hàng chưa bán được trong ngày, từ những
phố chợ túa ra trên các con đường về lại các buôn bản nằm thật sâu trong rừng
núi. Khoảng hai tháng sau khi tôi nhận việc tại Pleiku, vào một buổi chiều sắp
đến giờ tan sở, một chiếc xe Jeep trờ tới đậu ngay trước cửa văn phòng. Từ ghế
trưởng xa bước xuống một người bệ vệ không đeo cấp bậc, không phù hiệu đơn vị,
tôi nhìn ra và biết ngay người có dáng bệ vệ đó là Kim Tuấn. Cùng đi với anh có
một Thiếu Úy và một Trung Úy phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn II. Vừa bước vào Kim Tuấn đã lên tiếng trách:
- Tôi biết tin ông
lên đây đã gần hai tháng nay, không thấy ông tới “trình diện” tôi, thì tôi phải
tới “trình diện” ông vậy.
Giao tình của chúng
tôi khởi đi giản dị như thế. Với Kim Tuấn, tôi biết anh phải đi lính vì tất cả
mọi người đều đi lính, thế nhưng phải có nhân cách nào đó, để mỗi sáng trên chiếc
xe đưa đón nhân viên đi làm, một Trung Úy và một Thiếu Úy đã nhường ghế trưởng
xa cho một Hạ Sĩ. Tôi không nghĩ các bài hát dược phổ từ thơ Kim Tuấn như “Anh
cho em mùa xuân - Những bước chân âm thầm - Khi tôi về” có thể mang lại sự trọng
nể như thế. Sự kính nêå đó tôi nghĩ chỉ có thể đến do cách anh sống với người,
do nhân cách của Kim Tuấn khi ứng xử với cuộc đời. Từ đó cứ vài ba ngày hoặc là
trên đường từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn về nhà, Kim Tuấn ghé tôi đi uống cà phê, hay
thỉnh thoảng tôi có việc vào trong Bộ Tư Lệnh, thế nào tôi cũng kéo anh xuống
câu lạc bộ ngồi tán gẫu. Qua Kim Tuấn, tôi biết thêm Cao Thoại Châu đang dậy tại
Trường Nữ Trung Học Pleime, cùng một số bạn văn nghệ khác đang sinh sống tại
Pleiku trong thời điểm đó. Về phần Kim Tuấn, ngoài công việc của một người
lính, anh còn dậy học thêm nơi trường tư thục Bồ Đề, trong khi Cao Thoại Châu dậy
thêm tại trường Minh Đức.
Tôi có thể nói một
cách khiêm tốn, trước khi Kim Tuấn và Cao Thoại Châu chính thức lập nghiệp ở
Pleiku, thành phố này chưa bao giờ gây dựng được một không khí văn nghệ. Trước
đó năm, bẩy năm tại Pleiku mặc dù đã có một số khuôn mặt văn nghệ phục vụ trong
các đơn vị quân đội ở đây từ những năm cuối thập niên 50, như Dương Diên Nghị,
Duy Năng và Tường Linh song đó chỉ là những người làm thơ đơn lẻ, vì tai trời
ách nước mà phải hiện diện nơi cao nguyên gió bụi mưa mù này. Phải đợi tới cuối
thập niên 60, đầu thập niên 70 khi mà Cao Thoại Châu và Kim Tuấn đã dựng nhà ở
đây, đã dậy dỗ nhiều lứa học trò, và sau đó thì chiến tranh ném thêm nhiều
khuôn mặt văn nghệ lên vùng đất này, trong đó phải kể tới những tên tuổi như Thế
Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Hữu Định, Cam Nhị Thu, Trương Thìn, Miên Đức Thắng...
thay thế nhau có mặt tại thành phố này, thì Pleiku đã tự gây dựng cho mình một
bầu không khí văn nghệ biệt lập hẳn với Sài Gòn và Huế. Tôi ở đây hơn hai năm
trời, không ít thì nhiều cũng đã tiếp tay với Kim Tuấn và Cao Thoại Châu trong
việc gây dựng nên bầu không khí văn nghệ của thành phố này.
Phải nói ngay trong số
những người viết văn làm thơ tại đây, Kim Tuấn lớn tuổi nhất, thành danh trước
Cao Thoại Châu và tôi. Những bài hát được phổ từ thơ của anh đã khiến cho những
người làm văn nghệ khi nhắc tới Pleiku là nhắc tới Kim Tuấn, thế nhưng phải đợi
đến khi bài thơ “Còn một chút gì để nhớ” của Vũ Hữu Đinh được Phạm Duy phổ nhạc,
những người làm văn nghệ tại Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng, Cần Thơ,
Biên Hòa... mới thực sự biết đến một thành phố có tên là Pleiku. Nói một cách
khác phải đợi tới đầu thập niên 70, chính chiến tranh đã xác định địa danh
Pleiku không phải chỉ có những người lính, những trận giao tranh mà thôi. Ở nơi
đây bên cạnh những hơi thở nặng nhọc của những người lính chờ giao tranh, còn
có những hơi thở thoi thóp của những người lính làm văn nghệ.
Kỷ niệm đầu tiên giữa
tôi và Kim Tuấn là những lần cả hai rủ nhau đi cà phê, mà trước đó tôi phải bố
trí cho lính tuần tiễu bắt Kim Tuấn vì các tội danh đại loại như “lang thang
trong giờ làm việc, mặc quân phục không mang giầy, áo bỏ ngoài quần, quần không
gom ống, không giấy tờ tùy thân...”. Những cái tội hết sức ấm ớ mà bất cứ một
anh Quân Cảnh nào khi bắt lính đi ngoài đường, đều ghi vào trong Phiếu Vi Phạm.
Sở dĩ phải bắt anh vì vợ chồng anh có một pharmacy đồng thời bán mỹ phẩm và thời
trang phụ nữ, ngoài giờ làm việc anh hay phải đứng phụ với vợ trông cửa hàng.
Kim Tuấn và tôi ngầm ước hẹn với nhau mỗi tuần một hai lần, tôi cho lính đến “vồ”
anh đi cà phê cho nhẹ lòng. Chỉ có cách đó thì bà vợ anh mới không nghĩ là anh
bỏ mặc cửa tiệm đi chơi với bạn. Những lần bị “vồ” trót lọt trong vài tháng,
cho đến khi một người nào đó tiết lộ cho chị Kim Tuấn biết tình bạn văn nghệ giữa
tôi và Kim Tuấn. Một hôm tôi đang đi chợ trời trong khu trung tâm thành phố,
khi đi ngang cửa Pharmacy do hai vợ chồng Kim Tuấn làm chủ, chị từ trong tiệm
bước ra mời tôi vào coi hàng. Cách chị mời đon đả làm tôi khó từ chối, thế
nhưng bước vào trong tiệm chị không mời tôi coi hàng. Tôi là đàn ông, biết gì về
mỹ phẩm vải vóc. Chị mời tôi ngồi uống nước và trong lúc bất ngờ nhất chị nói với
tôi:
- Tôi biết Đại Úy là
bạn văn nghệ với anh nhà tôi, lần sau Đại Úy muốn rủ anh Tuấn đi cà phê, xin đừng
làm bộ bắt bớ khiến tôi sợ muốn chết.
Đúng lúc đó Kim Tuấn
từ trong phòng trong bước ra, anh nhìn tôi nháy mắt vì chưa biết bí mật của hai
chúng tôi đã lộ tẩy. Tôi cũng nhân đấy coi như không có chuyện gì xẩy ra và lớn
tiếng rủ Kim Tuấn đi cà phê cho chị nghe thấy. Từ đó tôi ít rủ Kim Tuấn đi cà
phê ngoài giờ làm việc, thỉnh thoảng tôi lên Quân Đoàn, đón Kim Tuấn về sớm một
hai giờ, khi về qua TĐ20CTCT, rủ thêm Thái Tăng An, sau cùng ghé Trại Giam Tù
Binh rước thêm Ngô Văn Đinh Hợi chui vào cà phê Văn, một quán văn nghệ nhất của
thành phố này. Đôi lần đã vào quán rồi còn quay trở lại đón thêm Cao Thoại
Châu, vì bận dậy học chỉ có thể dời trường sau 5 giờ chiều.
Năm 1971, trường
Trung Học Tư Thục Minh Đức, một trường học do các linh mục Công Giáo điều khiển,
đã tổ chức một “Tuần Lễ Văn Hóa”, với một cuộc thi văn chương cho toàn trường,
một cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ lúc đó đang đồn trú tại Pleiku như Ngô
Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An, Nguyễn Thanh Hiền... Cả hai nhà thơ Kim Tuấn và Cao
Thoại Châu cùng được mời làm giám khảo cho giải văn chương này. Hôm tuyên bố kết
quả, trường Minh Đức tổ chức một buổi đọc thơ. Tôi được mời lên đọc những bài
thơ mới, mà tôi không ngờ đã làm cho các bạn tôi sau đó ít ngày mất chỗ dạy.
Tôi còn nhớ trong hàng ghế đầu của quan khách, gồm các giới chức chỉ huy quân đội
cũng như hành chánh của tỉnh, kế đó là các vị hiệu trưởng của các trường Trung
Học trong vùng, đặc biệt là hai vị tu sĩ hiệu trưởng trường Minh Đức và trường
Bồ Đề. Bài thơ “Nói với thế hệ Trường Kỳ” của tôi là một bài thơ dài hơn trăm
câu, trong đó có một đoạn đã khiến cho hai bạn tôi trở thành “mất dạy”. Khi đọc
tới đoạn thơ này, mắt tôi chiếu thẳng vào từng loại người mà tôi đề cập đến
trong đoạn thơ gồm những câu khá nẩy lửa:
... Và vì vậy chúng
ta phải dấn thân
Để đốn ngã những tên
chủ chốt:
Là bọn thầy tu làm
chính trị
Bọn chính khách ma
cô
Bọn trí thức giả
hình
Bọn bác sĩ con
buôn
Bọn luật sư dẫn mối
Và bọn giáo sư chỉ điểm
Anh không thể thống
kê hết cho các em
Những hố hang anh đã
gặp trên đường
Suốt những năm trường
đi trong bóng tối
Bởi các anh là thế hệ
Trường Sơn
Thật vững vàng như
núi
Thật hùng vĩ như rừng
Các anh đã nhen nhúm
được từ trong bóng tối
Một ngọn lửa sáng lên
như niềm tin
Ngọn lửa cháy mỗi lúc
một to
Soi tỏ khuôn mặt các
anh ngày thêm rực rỡ.
Đã đến lúc trân trọng
mời thế hệ các em
Những người thua anh
dưới trên mười tuổi
Những người tới sau
Trường Sơn
Là Trường Kỳ trong
cách mạng.
(Trích bài thơ Nói với
thế hệ Trường Kỳ trong tập thơ Phục Hồi Quyền Chức Làm Người).
Tập thơ này sau đó
không có nhà in tư nhân nào nhận in, nên tôi in đại không giấy phép xuất bản tại
nhà in quân đội, chuyên in truyền đơn trên Pleiku, do Thái Tăng An trình bầy ấn
loát và Kim Tuấn viết bạt. Tập thơ đó về sau đã làm cho tôi vất vả, lận đận không
ít trong đời quân ngũ của tôi. Khi viết bạt cho tập thơ, Kim Tuấn đã có lần nói
với tôi: “Thơ phú như thế này mà lại làm sĩ quan Quân Cảnh thì thật là phí”.
Tôi cũng chẳng hiểu anh muốn ám chỉ gì.
Chỉ biết rằng sau tập
thơ này, mấy người chúng tôi hào hứng rủ nhau làm một quán cà phê. Thời đó chỉ
có Kim Tuấn là người tương đối dồi dào tài chánh nhất, mình anh bỏ một nửa vốn.
Cao Thoại Châu, Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An mỗi người một chút, phần tôi bao
dàn chỗ chót của nửa còn lại. Tôi có nhiệm vụ đi xin gỗ tại mấy xưởng cưa, đặc
biệt là gỗ vụn có vỏ cây để làm một cái nhà sàn giả có cầu thang lên xuống ở
hai phía của một bức vách, thay thế cho lối vào. Măt tiền của quán có một bức
tượng đắp nổi hình một thiếu nữ mang gùi, ngực trần. Quán được Cao Thoại Châu đặt
tên là quán cà phê “TAY TRÁI”, nằm trên con đường bên hông nhà thờ Quân Đội.
Cao Thoại Châu khi đề cập đến cái tên của quán đã nói:
- Bọn chúng mình nghề
chính là làm thơ, viết văn còn tất cả mọi thứ khác đều làm bằng tay trái, kể cả
những nghề đi lính, dậy học, bán thuốc tây, mở quán cà phê... gì gì đó chỉ là để
chơi với cuộc đời mà thôi.
Tuy nói vậy, song
thâm tâm tôi biết Cao Thoại Châu nghĩ khác. Việc trưng bầy, trang trí, làm quán
cho đẹp được giao cho hai họa sĩ Ngô Văn Đinh Hợi và Thái Tăng An. Trong thời
gian làm quán và trang trí, các bạn từ xa tới tấp lên thăm. Có người định lên
chơi hai ba ngày, thế mà rồi cả nửa tháng sau mới quay về đơn vị. Để hợp thức
hóa việc vắng mặt khá lâu của các bạn, trong chức vụ Trưởng Đồn Quân Cảnh
Pleiku, tôi phải làm các Lệnh Phạt, kèm theo Sự Vụ Lệnh cho quân nhân mãn hạn
thọ phạt trở về trình diện đơn vị. Từ khi quán được thành lập, hầu như mỗi buổi
chiều chúng tôi tụ tập nhau tại đây. Thời đó Ngô Văn Đinh Hợi, Thái Tăng An cư
ngụ tại một căn nhà sàn được cất ngay trong sân nhà tôi. Cả hai thường chỉ có mặt
tại nhà trong bữa ăn chiều, sau đó là cả ba chúng tôi trực chỉ tới quán cà phê,
ngồi đồng cho tới khi quán đóng cửa.
Từ khi có quán TAY
TRÁI, bạn bè văn nghệ từ khắp nơi mỗi khi ghé Pleiku đều được anh em đón về
đây, và mỗi lần tụ họp đông đảo như vậy là một lần anh em tổ chức văn nghệ, hát
hò, đọc thơ. Lần đọc thơ đầu tiên là hôm khai trương quán. Thời đó chỉ có Kim
Tuấn và tôi có thơ xuất bản, Cao Thoại Châu đề nghị gọi buổi sinh hoạt này là
“Đêm thơ Kim Tuấn - Hoàng Khởi Phong”, thế nhưng Kim Tuấn cho là phải có Cao
Thoại Châu nữa cho đủ bộ các ông chủ. Thế là Thái Tăng An thực hiện một bích
chương tuyệt đẹp treo trước cửa quán: “Đêm thơ Kim Tuấn - Cao Thoại Châu -
Hoàng Khởi Phong”. Hôm đó quán đông nghẹt người, ngồi tràn cả lên lối đi ngoài
lan can của cái nhà sàn giả. Đáng kể nhất là hai bàn đầu trong quán bị choán bởi
hai vị khách không có vẻ gì là văn nghệ. Một vị là Trưởng Ty An Ninh Quân Đội,
bạn cùng khóa 15 Thủ Đức với tôi. Bàn còn lại là ông Cò Phương, Trưởng Ty Cảnh
Sát vốn là một tay mê nhạc cổ điển tây phương. Vài hôm sau ông bạn Trưởng Ty An
Ninh Quân Đội gọi điện thoại cho tôi, và nói nguyên văn:
- Ông với tôi là bạn
cùng khóa, nên có lời khuyên trước là dẹp bớt những vụ đọc thơ, nhất là thơ của
ông.
Tôi hỏi gặng lại:
- Bộ ông được lệnh
theo dõi tôi phải không
- Không phải, tôi
chưa được lệnh lạc gì về ông cả, nhưng cứ đọc thơ kiểu đó không sớm thì muộn
tôi với ông cũng sứt mẻ tình bạn.
Mặc dù có lời can của
một người bạn cùng khóa tốt bụng, thế nhưng những buổi đọc thơ vẫn diễn ra, nhất
là mỗi khi có bạn văn nghệ từ xa tới. Có điều sau đó chúng tôi không bao giờ
khoa trương ra ngoài, không có bích chương quảng cáo trước. Ban đầu những buổi
đọc thơ rất đông người, về sau không hiểu vì lý do gì, khách dân sự ít lai
vãng. Mấy ông thầy dậy học có vẻ né chuyện trò thân mật với hai đồng nghiệp Cao
Thoại Châu và Kim Tuấn. Họ đồn đại quán Tay Trái như là một cái ổ chuyên đọc
thơ phản chiến và chống chính phủ.
Trong thời gian quán
cà phê Tay Trái hấp hối, mỗi đêm chỉ lèo tèo vài khách cùng dăm ông chủ hết ra
lại vào. Người khách thường xuyên nhất lúc nầy là ông Võ Ý, Phi đoàn trưởng Phi
đoàn O2 Quan sát Pleiku. Tôi biết ông phi công nầy từ khi ông biệt phái Ban Mê
Thuột và cánh không quân nhà ông đã phá nát chiếc xe jeep do đồn Quân Cảnh Ban
Mê biệt phái cho biệt đội Quan sát tại đây vì đã “phóng” xe bằng xăng máy
bay!
Nhớ khi tôi nghe lời
dụ khị của Thế Phong viết bài cho Đặc San Lý Tưởng Không Quân thì đã biết hai
ông Võ Ý và Lê Bá Định, Không Đoàn Trưởng 72 Chiến Thuật Pleiku bấy giờ trên tờ
Lý Tưởng đó. Phải nói ngay Võ Ý lẽ ra cũng là một trong các chủ quán và đã kêu
gọi cổ đông hết mình. Anh nói riêng với tôi là không thể tham gia trực tiếp vì
phải ngủ đêm trong phi trường, hơn nữa lại bận bịu với việc hành quân.
Mỗi khi có mặt Võ Ý,
quán ồn ào hẳn lên vì ít khi anh ra quán một mình mà thường có thêm vào ba ông
“giặc lái” trong đó phải kể người viết phú hay nhất là ông Lê Bá Định. Mấy ông
không quân cười nói rổn rảng, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của con phố đìu
hiu bên hông nhà thờ quân đội.
Cách thử thời vận của
các ông chủ có máu văn nghệ rút cục cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ: quán cà phê Tay
Trái đang trong cơn hấp hối báo hiệu thời điểm chia tay ai về nhà nấy. Đêm cuối
cùng của quán, chúng tôi uống với nhau những ngụm cà phê không phải với đường
mà với mật đắng của mỗi người...
3.
Chiến tranh mỗi lúc một
tăng nồng độ. Trên trời, dưới đất, trong rừng, ngoài biển... ở đâu đâu cũng có
những đám khói đen bốc lên cao, tỏa rộng ra khiến cho bầu không khí lúc nào
cũng ngột ngạt. Quán Tay Trái càng ngày càng ế ẩm. Trước tiên quán nằm ở một chỗ
khá xa trung tâm thành phố, chơ vơ một mình một con đường. Kế đó các khách yêu
văn nghệ nhưng yếu bóng vía sợ liên lụy, nên sau một thời gian chừng nửa năm mấy
ông chủ đồng ý dẹp. Ai về nhà nấy. Làm như trước khi bão tố, bầu trời lúc nào
cũng u ám nặng nề. Chiến tranh cũng vậy, trước khi rộ lên một mùa chém giết,
chiến tranh như một con rắn già, nằm bất động chờ lột xác. Đêm đêm ít nghe tiếng
đại bác bắn đi, nhưng trên con đường 14 thường xuyên có đắp mô, chôn mìn. Sau
khi quán đóng cửa, thỉnh thoảng tôi lái xe vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn bốc Thái
Tăng An, Kim Tuấn, Ngô Văn Đinh Hợi lên xe đi một vòng chung quanh thị xã. Bắt
đầu từ con đường do Liên Đoàn II Công Binh xây dựng phía trước cổng quân đoàn,
con đường này chạy thành một vòng đai chung quanh thị xã, tới quận Lệ Trung.
Trong những chuyến đi như thế, làm như tôi cảm nhận được những buôn bản gần thị
xã, những xóm nghèo dọc quốc lộ đang tìm cách nén mình xuống thấp. Mỗi chuyến
đi lang thang như vậy làm cho chúng tôi cảm thấy bớt tù túng, ngột ngạt trong một
thành phố nhỏ mà đầy lính. Lính ở đâu mà nhiều đến thế. Nhiều hôm còn sớm chúng
tôi đi thẳng tới Hàm Rồng, nơi đồn trú của Trung Đoàn 47 thăm Thế Vũ, Cam Nhị
Thu. Ở đó ai nấy đều lầm lì, nói với nhau những câu gióng một, nhát gừng. Uống
với nhau một ly cà phê, một chai bia rồi lái xe một đoạn đường hơn hai chục cây
số ra về.
Trước khi trận đánh
mùa hè 72 nổ ra, Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết phải lên thụ huấn một khóa đặc biệt
về quân số tại Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn. Tôi chạy chọt cho anh khỏi phải
vào ăn ở trong Quân Đoàn, mà cư ngụ tại nhà tôi. Khóa học kéo dài hai tháng,
trong hai tháng này mỗi bữa cơm chiều, nhà tôi thế nào cũng có khách thêm bát
thêm đũa. Kim Tuấn và Cao Thoại Châu là người hay lại ăn ké nhất trong lúc Nguyễn
Bắc Sơn cư ngụ tại nhà tôi. Kim Tuấn ít uống rượu, thế nhưng mỗi khi tới xà vào
bàn ăn, lần nào cũng xách theo một gói giấy, trong đó có một vài lon bia anh
mua tại chợ trời ngay trước hiên nhà, kèm theo một gói thịt quay, phá lấu, lỗ
tai, bao tử... của anh Tầu bụng phệ, có một tủ thịt quay bay bán ngay tại trước
cửa một tiệm nhậu nơi bùng binh trước rạp xi nê Diệp Kính. Thời gian đó Nguyễn
Bắc Sơn ăn gạo lức muối mè theo phương pháp Osawa. Mỗi bữa ăn anh bới một chén
cơm gạo lức ngồi lặng lẽ nhai trước cả tiếng, trước khi cả lũ chúng tôi ngồi
vào bàn.
Có một dạo đột nhiên
những người bạn văn nghệ ở xa tới Pleiku chơi, ai nấy đều đòi chụp một tấm hình
chung với tôi. Sau vài lần tôi ngờ ngợ có điều gì khác thường trong các vụ chụp
hình chung này. Cuối cùng Kim Tuấn tiết lộ: Có lần tôi để quên giấy tờ, bị nhân
viên của ông vồ. May làm sao lúc đó tôi đang đi lấy hình về, và trong xấp hình
này có một bức hình tôi chụp chung với ông. Bí quá tôi đành phải mang cái hình
chụp chung với ông mang ra thay giấy tờ tùy thân, nhờ vậy đã không bị vồ mà lại
còn được chào là Đại Úy. Sau khi câu chuyện này được phổ biến trong vòng bạn bè
văn nghệ, một số anh em cũng muốn có một cái bùa nhỏ lận trong người, vì tôi được
tiếng là người có mặt tại tất cả các Tiểu Đoàn Quân Cảnh của bốn vùng chiến thuật.
Mang tôi ra làm bùa với anh em binh sĩ Quân Cảnh hành sự ngoài phố, không ít
thì nhiều cũng có lợi hơn là trong tay không có một tấm giấy lộn.
Thế rồi trận chiến
mùa hè 72 nổ ra trên toàn quốc, chiến tranh như cơn quẫy mình của một con rắn
trong khi lột da. Súng nổ đạn bay từ khắp bốn phương trời. Trong giai đoạn này
tôi ngẫm đến những lời thơ của Kim Tuấn, qua phần nhạc phụ họa của Phạm
Duy:
... Giây thép gai đã
hết rào quanh đồn phòng ngự
Và người lính đã trở
về cầy đám ruộng xanh
....Khi tôi về con diều
bay diều bay trong gió
Có đứa trẻ để mình trần
rốn hở, cười thanh bình
Con cò lại bay trên đồng
ruộng xanh...
Những điều đẹp đẽ đó
đau lòng thay chỉ là những hình ảnh mà Kim Tuấn đã bắt gặp trong những giấc ngủ
của mình. Để rồi khi tỉnh dậy anh buồn bã viết:
...Và khi thức dậy,
tôi tìm thấy tôi
Và khi thức dậy, tôi
tìm thấy tôi.
Tin xấu từ khắp nơi
bay về, các bạn tôi những người lính làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc
cũng như những người lính chỉ biết bắn súng ngã xuống hàng loạt khắp các chiến
trường. Trong thời gian này, tướng Toàn Tư Lệnh Quân Đoàn II ra lệnh: Mọi quân
nhân ra ngoài đường phải đội nón sắt hai lớp có lưới ngụy trang, phải mang dây
ba chạc với vũ khí đầy đủ cấp số đạn dược. Kim Tuấn vốn là người lính không bao
giờ mang súng, thậm chí anh còn không lãnh súng tại đơn vị vì sợ phải lau chùi,
thất thoát. Trước cái lệnh oái oăm này, Thái Tăng An mách nước cho Kim Tuấn:
Anh Phong thiếu gì súng tịch thu ngoài bảng cấp số, nói anh ấy cho một khẩu
súng lục đeo cho nó đỡ vướng víu. Được lời như cởi tấm lòng, Kim Tuấn mò tới
tôi xin một khẩu súng “lậu”. Xui cho anh là trong kho tang vật chờ báo cáo
thiêu hủy lúc đó không còn khẩu súng Colt nào, tôi phải đưa cho anh một khẩu
súng M79, trông to ngang, họng lớn nhưng nhẹ hơn súng trường. Có súng rồi đi
đâu anh cũng mang theo kè kè bên nách. Khẩu súng M79 nói nào ngay trông đẫy đà
hệt như Kim Tuấn.
Cơn bão lửa mùa hè
sau cùng rồi cũng qua, trên khoảng đường từ Pleiku đi Kontumcả hai bên biết bao
người ngã gục. Lâm Hảo Dũng, một nhà thơ Pháo Binh đã tham gia chiến trận trong
vùng này đã viết:
...Chư Pao ai oán hờn
trong gió
Mỗi tấm khăn tang, một
tấc đường...
Trong trận chiến mùa
hè năm đó, con đường Pleiku - Kontum bị đứt hơn một tháng trời. Con đường này
dài hơn 45 cây số, riêng đoạn đường của địa danh Chư Pao đã dài hơn mười cây số.
Để giải tỏa bốn mươi lăm cây số ngàn này, thử hỏi có bao nhiêu tấm khăn tang
cho vừa.
Một hôm Nguyễn Bắc
Sơn từ Phan Thiết mò lên. Lúc đó đã hơn 4 giờ chiều, Nguyễn Bắc Sơn yêu cầu tôi
chở anh tới Chư Pao, địa danh trong câu thơ của Lâm Hảo Dũng. Đây là một vùng đồi
núi chằng chịt những tảng đá xanh. Trận đánh giải tỏa con đường đã diễn ra suốt
một chiều dài 15 cây số giữa đường Pleiku Kontum. Dấu vết của những trái bom lửa
đánh xuống các chốt đóng quân của Cộng Sản còn hiện diện nơi những khoảnh rừng
bị cháy nám đen, những tảng đá vôi bị nung nóng vỡ toác ra như người ta tôi vôi
sống. Những cái cây bị cháy trụi lá chỉ còn những cành lớn đen xì, chen lẫn những
tảng đá vôi trắng xóa, nổi bật trên bầu trời xanh đã tạo thành một bầu không
khí im lặng đến rợn người. Ngay khi con đường giải tỏa, tôi đã theo đoàn quân
tiếp viện Kontum để thăm viếng một đơn vị nhỏ thuộc quyền chỉ huy của tôi nằm
trên này, do đó tôi biết 5 giờ chiều con đường bị đóng lại. Thế mà khi Nguyễn Bắc
Sơn mò tới thì đã hơn 4 giờ chiều. Phải đi một quãng đường hơn 20 cây số rồi phải
quay về... Tôi còn đang lưỡng lự thì Kim Tuấn ở đâu mò tới. Thế là cả ba chúng
tôi leo lên xe jeep, cùng với chú Hội người tài xế mà tôi thương yêu như em ruột.
Cả ba chúng tôi, ba kẻ làm thơ của miền Nam đi vào chiến tranh, mà đầu toàn những
ý nghĩ trong veo như thơ của Nguyễn Bắc Sơn:
... Ta vốn hiền khô,
ta là lính cậu
Đi hành quân vẫn rượu
đế đem theo
Mang trong đầu những
ý nghĩ trong veo
Coi chiến trận như
tai trời ách nước...
Cả ba chúng tôi cùng
chong mũi súng hướng ra ngoài, mặc dù tôi tự biết, giả dụ địch quân có tấn
công, bắn xẻ may mắn lắm trên xe chỉ có hai thầy trò tôi biết phải làm cái gì,
phải phản ứng như thế nào. Dọc đường đi Nguyễn Bắc Sơn nói:
- Tôi muốn đến đây đọc
cho người bạn của tôi nghe một bài thơ mới, đã được làm khi con tôi sinh ra,
đúng vào lúc bạn tôi nằm xuống tại cửa ngõ của tỉnh Kontum này.
Kim Tuấn hỏi:
- Ông có biết đích
xác bạn ông nằm xuống ở chỗ nào không. Rừng núi sầm uất như thế này, biết chỗ
nào mà mò.
- Tôi chỉ muốn tới
nơi mà người ta gọi là Chư Pao mà thôi. Chắc anh hồn của bạn tôi còn đang quyến
luyến nơi này, chưa đi đâu xa. Chỉ cho tôi đâu là Chư Pao.
Tôi nhìn thấy ánh mắt
lạ lùng của Nguyễn Bắc Sơn, long lanh mà u hoài, sáng rực mà lạnh lẽo. Thế rồi
anh nhắm mắt lại, những giọt lệ từ đâu trào ra khỏi khóe mắt, lăn dài trên gò
má. Nhìn sang Kim Tuấn tôi cũng thấy mắt anh đỏ hoe, ươn ướt lệ. Tôi không nhìn
thấy đôi mắt tôi lúc đó, song tôi thấy lòng mình trùng xuống như một sợi giây
đàn đã lâu không được ai cầm đến.
Khi chúng tôi tới địa
phận Chư Pao thì đã 4 giờ 45 chiều, tôi nói chú Hội nên quay đầu xe lại và nổ
máy sẵn. Cả ba chúng tôi xăm xăm bước tới một tảng đá to ngay vệ đường. Nguyễn
Bắc Sơn rút trong ba lô ra một bó nhang, anh thắp vài nén cắm ngay xuống rìa tảng
đá. Tôi kín đáo dời xa hai bạn, ẩn mình sau một gốc cây to. Nguyễn Bắc Sơn rút
bài thơ từ trong túi áo, anh đọc nhẩm những câu thơ như những lời khấn nguyện,
gửi tới người bạn đã khuất. Bài thơ chấm dứt, Nguyễn Bắc Sơn mang ra một cây
sáo trúc, anh thổi một khúc sáo chiều, âm thanh tưởng chừng như đã làm bạt đi
cái im lặng rợn người của núi rừng. Tôi nhìn thấy xác những chiếc chiến xa đen
trùi trũi, nằm ngổn ngang trên các sườn đồi in trên nền trời mây trắng. Trên đường
về thỉnh thoảng chúng tôi phải xuống xe kéo những con ngựa gai chặn ngang quốc
lộ của các đồn bót dọc đường.
Đêm đó Nguyễn Bắc Sơn
ngủ lại nhà tôi, nhưng tôi biết là anh không ngủ được, tôi nghe những tiếng động
lịch kịch vẳng từ phòng anh. Có lúc tôi còn nghe thấy anh mở cửa ra ngồi trước
hiên nhà, và nếu như không ngại hàng xóm láng giềng, chắc hẳn anh sẽ mang cây
sáo trúc ra thổi chiêu hồn người bạn vừa khuất.
Trận chiến mùa hè 72
sau cùng rồi cũng qua đi, đầu năm 73 các bên tham chiến ký với nhau một văn kiện
hòa bình giả dối tại Paris. Khi thò tay ký vào văn kiện này, ít nhất Mỹ và Bắc
Việt đã hiểu nó chỉ là một tờ giấy lộn, một màn kịch tạm thời, một sự dối trá
vĩ đại để dàn dựng cho hồi kết cục của vở kịch chiến tranh đã kéo quá dài ở Việt
Nam, đã làm cho nước Mỹ quá mệt mỏi. Đầu năm 1973, tôi phải đi công tác trao đổi
tù binh, rồi sau đó vì không được lòng ông xếp trực tiếp tại Pleiku, tôi phải đổi
đi Đà Lạt. Kỷ niệm cuối cùng của tôi và Kim Tuấn chính là lúc tôi vừa làm nhà
xong ở Đà Lạt, mẹ tôi từ Sài Gòn lên làm lễ cúng ông Địa, trước khi tôi mang vợ
con từ Pleiku xuống. Mẹ tôi vừa mới thắp hương cắm rải rác quanh sân, ngoài ngõ
xong quay vào nhà. Những nén hương chưa kịp tàn trên trang thờ gần cổng, thì
Kim Tuấn đã lững thững từ ngoài đường đi vào. Tôi cũng không hiểu sao anh biết
đường vào nhà tôi, khi tôi chưa chính thức dọn vào căn nhà mới dựng tại một con
đường cụt, nằm trong một hẻm núi phía sau dinh hai của quốc trưởng Bảo Đại.
Lần gặp nhau cuối
cùng đó anh ngụ lại nhà tôi vài ngày, dường như anh có một mối tình tuyệt đẹp với
một cô ca sĩ ở đây có tên là TC, bởi vì chỉ hai ngày sau mới sáng sớm sương mù
Đà Lạt còn chưa tan, tôi đã thấy chị Kim Tuấn từ Pleiku mò xuống tìm anh về.
Tôi tránh mặt đi làm sớm, và mãi vài tuần sau mới biết được điều này, khi Kim
Tuấn từ Pleiku gọi điện thoại xuống. Cho tới năm đó anh đã gần bốn chục mà hai
vợ chồng anh chưa có một mụn con nào. Không những thế anh lại là con một, tên
chính thức là Nguyễn Phước Vĩnh Khuê, ngang vai vế với Bảo Đại ông vua cuối
cùng của nhà Nguyễn, và là hậu duệ của Tùng Thiện Vương, một trong vài thi sĩ nổi
tiếng của triều Tự Đức. Sau này tôi biết thêm hai vợ chồng anh ly dị sau 75, bà
vợ cũ của anh đã qua Pháp lập nghiệp. Anh ở lại Việt Nam đi thêm một bước nữa,
và có hai con với người vợ sau. Dường như anh còn có một cô con gái riêng với
chị TC, cô gái đó nghe đâu hiện nay đang cư ngụ tại Philadelphia.
4.
Năm nay tôi bước vào
tuổi sáu mươi, làm như tuổi già thường được báo hiệu bởi những cái chết. Trong
vòng tám tháng tôi mất đi hai người bạn. Đầu năm nay trong những ngày giáp Tết,
Long Ân nằm xuống do một tai nạn trong lúc lái xe ở Quận Cam California, nhưng
nguyên nhân chính của tai nạn bắt đầu bởi một cơn đau tim, và giờ đây Kim Tuấn
với một cơn đau tim khác, chết trên đường đến bệnh viện tại Việt Nam. Nếu như
Long Ân là một người bạn ngồi chung lớp suốt 6 năm trời từ Nguyễn Trãi qua Chu
Văn An, thì Kim Tuấn đến với tôi là một trong vài người bạn đầu đời khi tôi bước
chân gia nhập vào giới cầm bút.
Lữ Quỳnh cho tôi biết
vài chi tiết về cái chết của Kim Tuấn. Theo nhà văn Phan Triều Hải, con của Lữ
Quỳnh hiện còn ở Việt Nam cho biết: Bác Kim Tuấn mất đúng vào đêm Trung Thu.
Theo lời thuật lại của Phan Triều Hải thì buổi tối trước khi mất, Kim Tuấn còn
đến dự một đêm văn nghệ với các em thiếu nhi trong một sinh hoạt trung thu đặc
biệt. Vào khoảng 10 giờ đêm, trong lúc buổi liên hoan đang đến lúc hào hứng nhất
thì anh bỏ về sớm, rủ vợ và các con ra uống trà, ăn bánh trung thu và ngắm
trăng. Vào khoảng 11 giờ rưỡi, trăng sáng vằng vặc giữa đỉnh trời, đang nói
chuyện vui vẻ với vợ con thì cơn đau tim ập tới, và anh đã chết ngay trên đường,
trong lúc xe chở anh chưa kịp đến nhà thương.
Có một điều trùng hợp
lạ lùng là khi anh mất đi vào đúng đêm Trung Thu, hai ngày sau tôi được tin buổi
sáng, thì ngay buổi tối đó tại Phòng Sinh Hoạt của Nhật Báo Người Việt, bên cạnh
chỗ tôi làm việc cô ca sĩ Mộng Thủy ra mắt một đĩa nhạc. Tôi ngồi trong phòng,
lắng nghe tiếng hát của cô ca sĩ vừa mới thành danh từ phòng bên cạnh, hát những
lời thơ của anh, trong khi ánh trăng lọt vào qua cửa kính. Tôi tin lúc đó anh hồn
của anh, nhà thơ Kim Tuấn đang tan trong ánh trăng. Có thể anh đã nhìn thấy
tôi, có thể anh đã nghe lời thơ của anh đang vọng về từ bên kia đại dương. Nếu
anh có nghe được tiếng hát tinh khôi này, lẩn trong đó là những lời chúc lành của
tôi.
Anh Kim Tuấn
thân,
Nếu như chiến tranh
chưa tàn, thì giao tình giữa anh và tôi dã được hơn ba chục năm, đã quá nửa một
đời người. Khi còn sống gần nhau trong cùng một đạo quân, trên cùng một thành
phố đầy gió bụi và mưa mùa, cùng chia với nhau những khốn khó của thời chiến,
anh với tôi đúng là những người bạn văn chân chính. Nếu không phải là bạn chân
chính chắc anh không dại gì viết bạt cho một tập thơ đã bị kiểm duyệt cấm,
nhưng cứ in lậu không thiếu một chữ nào. Tất nhiên chúng ta ở miền Nam, cái tội
này cũng không đến nỗi phải đi tù, song chắc chắn là bị phiền nhiễu. Và quả tình
trong hoàn cảnh một đất nước như đất nước chúng ta, có nhà văn, nhà thơ nào
chia chung nỗi đau của dân chúng mà không bị làm phiền bởi chính quyền của cả
hai miền.
May mà chúng ta cư ngụ
ở miền Nam, ông Cò Phương Pleiku mỗi lần nghe đọc thơ chống chế độ ở quán Tay
Trái ra về là lắc đầu quầy quậy. Ông Trưởng Ty An Ninh Quân Đội, người bạn cùng
khóa với tôi coi bộ khó tính hơn ông Cò Phương, thế mà chỉ làm phiền tôi qua một
cú điện thoại rồi thôi. Anh và Cao Thoại Châu quá lắm là mất chỗ dậy tư ở trường
Bồ Đề và trường Minh Đức. Thế nhưng bọn chúng ta chẳng có ai bị vào tù như những
người chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc. Mà giả dụ có vào tù, thì bọn cuồng
chữ như chúng ta cũng không đến nỗi bị dầy vò nhân cách, bị hạ xuống đất đen, bị
chà đạp hành hạ như con thú. Nhiều năm rồi tôi không còn nhớ tới Pleiku, tới
chiến tranh, bởi vì cái đến sau chiến tranh nghĩ cho cùng còn tai họa hơn chiến
tranh. Tin anh mất đã làm cho tôi tiếc nhớ những người bạn của thời chiến, làm
như tôi đang thèm khát chiến tranh. Bởi vì so đời sống trong hòa bình hiện tại,
thì chiến tranh ít nhất cũng còn làm cho một nửa phần đất nước không đến nỗi tồi
tệ.
Anh Kim Tuấn
thân,
Giờ thì anh đã ngủ và
không còn mơ nữa. Giờ thì hẳn là anh đã tìm được những gì anh đã thấy trong giấc
ngủ trước kia, và vì vậy anh sẽ không bao giờ phải dậy nữa. Tôi hát nhẩm vài
câu thơ của anh đã được phổ nhạc. Tiếng hát của ca sĩ Mộng Thủy từ phòng bên cạnh
vẫn còn văng vẳng trong đầu tôi mấy ngày nay.
... Và khi thức dậy
Tôi tìm thấy
tôi
Và khi thức dậy
Tôi tìm thấy
tôi...
Hoàng
Khởi Phong
1 3 3