THÍCH PHƯỚC AN
Hoài Khanh,
người thi sĩ đi tìm lại nguồn cội
của một dòng sông
Cách đây hơn một năm,
nhân dịp vào Sài gòn, tôi nhờ một người thân, dù sanh ra và lớn lên sau 1975
nhưng lại rất say mê thơ Hòai Khanh ( thầy NM) chở tôi đi Biên Hòa để thăm Hòai
Khanh. Mặc dù đã đọc thơ và quen biết từ nhữnng năm đầu thập niên 70 của thế kỷ
trước, nhưng tôi chưa có dịp nào đến Biên Hòa để thăm ông, dù những câu thơ của
ông nói đến đất Biên Hòa thì tôi đã đọc từ lâu lắm rồi:
Tôi về vun xới vườn
hoa
Cho em là gái Biên
Hòa, Hàm Tân
Cho tôi là kẻ cô thần
Nằm đây gởi mộng dậy
ngàn sương xanh
(lục bát)
Khi xe chở tôi đi qua
cầu sông Đồng Nai trước khi rẽ vào nhà Hòai Khanh, tôi cứ thắc mắc không biết
có phải cây cầu này, dòng sông này, mà Hòai Khanh thuở rất còn trẻ đã viết
trong tập thơ Dâng Rừng (1957 ), có hai câu:
Qua sông là một nhịp
cầu
Qua tôi là một kiếp sầu
vô chung
Hay không?
Hai câu đã khiến cho
Bùi Giáng phải kinh ngạc mà thốt lên rằng:
“Anh chưa quá 20 tuổi,
anh làm những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh
mình trước cái vĩ đại hồn nhiên lẩm liệt của tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ
ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được”
(1).
Theo tôi đó chỉ là một
cách nói tuyệt đối của Bùi Giáng đối với cõi thơ của Hòai Khanh chứ không phải
Bùi Giáng có ý đặt sự nghiệp thi ca của Hòai Khanh đứng ngang hàng cùng với các
bậc tiền bối trên. Nhưng tôi cho rằng, có một sự đồng cảm lạ lùng giữ cõi thơ của
Nguyễn Du, người của hậu bán thế kỷ 18 và Hòai Khanh, người của hậu bán thế kỷ
20, nghĩa là cách nhau đúng 2 thế kỷ.
Sự đồng cảm này được
thể hiện qua bài thơ Nhớ Nguyễn Du, được Hòai Khanh làm để đăng trong tạp chí
Tư Tưởng, cơ quan luận thuyết của Viện Đại học Vạn Hạnh, số đặc biệt có chủ đề
là Nguyễn Du với Phật giáo. Cùng cần nhắc lại là tạp chí này quy tụ hầu hết những
nhà văn nhà thơ cùng những nhà biên khảo danh tiếng nhất của miền Nam trước
1975 được Phạm Công Thiện và sau đó là Tuệ Sĩ đứng ra điều hành.
Trong số ấy. tôi còn
nhớ có hai bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Du được truyền tụng nhiều nhất là
bài của Bùi Giáng và của Hòai Khanh . Nếu bài của Bùi Giáng với hai câu kết:
Gửi trời một giọt mù
sương
Trao về cho đất vô
thường cảo thơm
Đã nói lên hết tất cả
sự hoằng đại của thông điệp mà Nguyễn Du đã muốn gửi đến cho “ mặt đất trầm trọng
và đau thương” này, thì bài của Hòai Khanh mới là bài nói lên hết tất cả nội
dung của thông điệp ấy của Nguyễn Du.
Bài ấy sau được Hòai
Khanh cho in lại trong tập Lục Bát (1968), thi phẩm thứ ba của ông như thế này:
Cõi nào giọng khởi
nguyên vang?
Nhánh khô trời muộn
trôi tan mộng thầm
Súng còn vọng mãi trời
căm
Rưng rưng mắt lệ
nghìn tâm sự nào?
Mộng đời nát ngọc
chìm châu
Bến mê vẫn rợn mấy
màu trầm luân
Mười lăm năm bấy
nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi
trần gian kia?
Ngược xuôi bao kẻ đi
về
Tấm thân bé mọn bên lề
tồn vong
Chuyện đời có có
không không
Phù vân một áng bụi hồng
xa xa
Cớ sao thiên hạ người
ta
Vẫn chưa chưa tròn một
Quê-Nhà-Bao-Dung?
Vẫn chưa tỉnh giấc
hãi hùng
Trong cơn trường-mộng-vô-cùng-thời-gian
Như vậy là, kể từ
Nguyễn Du kêu lên một cách thống thiết ở cuối thế kỷ 18:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Thì với Hòai Khanh tiếng
kêu la thống thiết và hải hùng đó của Nguyễn Du cho đến hậu bán thế kỷ 20 vẫn
còn tiếp tục:
Súng còn vọng mãi trời
căm
Rưng rưng mắt lệ
nghìn tâm sự nào
Và cũng chính trong
bài thơ này thi nhân đã phải nhắc nhở lại rằng, rốt cuộc thì chúng ta, những
con người đang sống trên mặt đất này chẳng là gì cả mà chỉ là 1 sinh vật bé nhỏ
tội nghiệp đã đến và dừng lại chỉ trong một khỏanh khoắc rồi lại tiếp tục cuộc
hành trình mịt mù trong không gian vô cùng và thời gian vô tận của vũ trụ mênh
mông này:
Ngược xuôi bao kẻ đi
về
Tấm thân bé mọn bên lề
tồn vong
Chuyện đời có có
không không
Phù vân một áng bụi hồng
xa xa.
Thế nhưng, trong khoảnh
khắc dừng lại ấy, còn người không lúc nào được yên thân, vẫn luôn luôn là nạn
nhân cho những Sở Khanh, những Mã Giám Sinh, những Khuyển, Ưng, Tú Bà…v.v, tức
là những cái tên tượng trưng cho biết bao điều xấu ác đã đang và sẽ tiếp tục hiện
diện khắp nơi, chúng đeo nhiều mặt nạ, kể cả mặt nạ “thần thánh” để tiếp tục xô
đẩy con người vào chổ tối tăm hãi hùng.
Bởi thế cho nên, thi
nhân cho rằng 15 năm đọa đày tủi nhục của Thúy Kiều chưa chấm dứt và 15 năm ấy
vẫn cứ tiếp tục lập đi lập lại mãi đối với thân phận của mỗi người trên mặt đất
này:
Mười lăm năm bấy
nhiêu lần
Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi
trần gian kia?
Và nhiều lần thi nhân cũng đã thốt lên trong nổi tuyệt vọng :
Cớ sao thiên hạ người
ta
Vẫn chưa tròn một
quê- nhà- bao- dung
Vẫn chưa tỉnh giấc
hãi hùng
Trong cơ trường -mộng
-vô -cùng -thời -gian.
Dù lúc ấy (hậu bán thế
kỷ 18) Nguyễn Du chỉ chứng kiến nỗi điêu linh thống khổ của đất nước mình thôi
và chắc chắn vẫn chưa biết gì đến thảm trạng của thế giới như chúng ta đang biết
ngày nay nhờ sự tiến bộ vượt bực của Công Nghệ thông tin. Thế nhưng với “ tấm
lòng nghĩ suốt nghìn đời” thi hào của chúng ta đã nhận ra rằng không có nơi nào
trên mặt đất này là không có điêu linh thống khổ cả:
Đại địa xứ xứ giai Mịch
La
Trên mặt đất này đâu
đâu cùng là dòng sông Mịch La.
Và nếu như lúc sinh
tiền Nguyễn Du cứ bân khuân tự hỏi trong cô độc:
Bất tri tam bách dư
niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp
Tố Như?
Thì thi hào của chúng
ta không cần phải đợi đến 300 năm mà chỉ 200 thôi cùng đã có nhiều người nhỏ lệ
khi độc ông, và không chỉ nhỏ lệ thôi mà còn tiếp tục con đường mà ông đã để lại
bằng cách nói lên hết tất cả nỗi điêu linh thống khổ mà con người phải gánh chịu
trên mặt đất đau thương này.
Hòai Khanh tất nhiên
là một trong số những người đó.
Gần như trong toàn thể
thi phẩm của ông đều tràn ngập sự đau khổ, nhưng không phải đau khổ vì hận thù
mà đau khổ vì tình thương đối với con người, như trong một câu thơ ông đã tự khẳng
định:
Vai mang xiềng xích vẫn
thương bạo tàn
Trước tiên, ông nói đến
quê hương mà quê hương thì gần như lúc nào cũng chìm ngập trong khói lửa chiến
tranh:
Quê hương tôi ở chốn
nào
Phải chăng Châu Á buồn
đau ngút ngàn
Mẹ hiền sớm chít khăn
tan
Màu hương khói lạnh đồng
hoang, chiến trường
Thế hệ của Hòai Khanh
không phải chỉ chứng kiến có một cuộc chiến tranh mà cả hai cuộc chiến tranh. Hết
chiến tranh chống Pháp xâm lược thì tiếp đến phải chứng kiến cuộc chiến tranh ý
thức hệ giữa hai miền Nam Bắc:
Chiến tranh rồi chiến
tranh
Giãi đất nghèo nàn
này quê hương tôi
Mỏi mòn tháng ngày
qua
Những buổi chiều xám
Những đêm tóc tang
Tiếng súng vọng từng
hồi uất nghẹn
Bởi vậy, trong một
lúc đau khổ và quá tuyêt vọng, Hòai Khanh gần như hòai nghi luôn cả cái mà xưa
nay vẫn thường được ca tụng là “ giá trị của con người”
Con ơi!
Làm sao mày lại phải
sinh ra
Có phải để lớn lên vục
đầu
Trong niềm kiêu hãnh
là người?
Có lẽ với hầu hết
chúng ta, dường như lúc nào chúng ta cũng muốn lẩn tránh sự đau khổ, để an tâm
mà tiếp tục hưởng một chút hạnh phúc mà ta đang có được trong tay dù chúng ta vẫn
thừa biết rằng những thứ hạnh phúc ấy vốn rất mong manh.
Nhưng những nghệ sĩ
chân chính thì ngược lại, dù họ có là tín đồ của đạo Phật hay không thì theo
tôi, họ vẫn là những kẻ thể hiện đúng nhất tinh thần mà Đức Phật đã cành giác
chúng ta trong kinh Pháp Hoa:
Tam giới bất an do như hỏa trạch
Ba cõi không yên, in như nhà lửa
Hòai Khanh trong bài
thơ có tên là Về Nguồn theo tôi, đã thể hiện trọn vẹn tinh thần ấy của Pháp Hoa
kinh.
Bài thơ ấy bắt đầu bằng
một cuộc hành trình được tác giả tưởng tượng như thế này:
Nếu em đã cùng tôi
trưa hôm đó
Chuyến xe Sài gòn-Phú
Nhuận ra đi
Tôi sẽ đưa em về miền
cát bỏng
Cỡi lạc đà đi suốt
cõi Châu Phi
Nơi ấy, dù mỗi ngày mặt
trời vẫn mọc nhưng vẫn không xóa tan nổi màu đen giá buốt mà con người ở đó phải
gánh chịu:
Ôi Phi Châu! Kiếp người
đầy tủi nhục
Tự bao đời ai dựng
cõi điêu linh
Sương không trắng giữa
màu đen giá buốt
Mặt trời bừng chưa
sáng nẻo quang linh
Muốn đi, nhưng biết
đi về đâu? Vì nơi nào trên mặt đất này mà chẳng phải là sông Mịch La? Là Châu
Phi?
Trưa hôm đó em đã
cùng tôi chuyến búyt
Mang niềm đau tôi tới
tận phương nào
Em có nhớ mỗi lần xe
tách bến
Bóng một người ngơ
ngác đó về đâu?
Nhưng rồi cũng giống
như một kẻ tử tội cuối cùng hắn cũng bị lôi trở về lại cái nơi chốn mà hắn đã
chạy trốn ấy:
Hắn đã về giữa dòng
sông nước chảy
Của Á Châu nhược tiểu
khổ đau này
Hắn đã về giữa cát bừng
sa mạc
Của Phi Châu quằn quại
suốt trời mây
Nhưng nếu chúng ta cứ
lăn vào những nơi đau khổ, đối mặt với đau khổ, thì nổi đau khổ mênh mông của
kiếp người liệu có chấm dứt được không? Nếu không thì chúng ta lăn vào để làm
gì?
Để em biết nỗi buồn
xa đất tổ
Thương linh hồn bộ lạc
thuở lang thang
Và thương mình một
tình yêu bé nhỏ
Có nghĩa gì giữa đau
khổ mơ hoang?
Đó phải chăng là lời
giải đáp gián tiếp của tác giả bài thơ Về Nguồn?
Trong kinh Pháp Cú, Đức
Phật cũng đã từng nhắc nhở chúng ta:
Làm sao mà ta có thể vui được
Có thể đắm chìm trong lạc thú được?
Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu
Bóng tối đang vây phủ
Ta không muốn tìm ánh sáng sao?
Và chúng ta cũng đừng
quên rằng, tất cả những con người được ca tụng là xuất chúng, là vĩ nhân đều là
những con người đã đứng lên từ trong đau khổ, nghĩa là họ dám từ bỏ những lạc
thú tầm thường, những niềm vui nhỏ nhen ích kỷ, để rồi cuối cùng họ mới vựợt
lên chính họ được.
Trong thi ca của Hòai
Khanh ta thấy ông còn phải mang nổi thống khổ mà tác giả Đọan Trường Tân Thanh ở
hậu bán thế kỷ 18 chưa phải gánh chịu.
Trong bài Sầu Thế Kỷ
Hòai Khanh viết lên nổi đau khổ đó:
Vào đời một trái tim
côi
Bao phen rách nát giọng
cười hỗn mang
Ai đâu một tấm lòng
vàng
Hai mươi thế kỷ điêu
tàn rồi chăng?
Người ta đang thoát
căn phần
Văn minh cơ khí giết
dần yêu thương
Nhưng khi đối mặt với
thế giới lạnh lùng và vô cảm ấy, Hòai Khanh không như Bùi Giáng đã bị bắt buộc
phải nói lên lời phản kháng mạnh mẽ:
Ầm cơ giới hận
Thân tù chung thân
Mà ông chỉ nói lên nổi
bàng hoàng sững sốt của mình:
Ôi! Con người của thế
kỷ 20
Chiếc hộp, cây đinh,
con ốc, ngọn đèn
Rồi sẽ bị bóp-đóng-vặn-bật-lên.
Nhưng đứng trước những
nổi khổ lớn lao do con người gây ra đó, thái độ của thi nhân như thế nào?
Ông có bất mãn quay
lưng lại với sự tàn nhẫn của con người như thế này không?
Nhân loại! Tôi không chơi với các anh nữa
Ván bài nào anh cũng ăn gian
(Trần Dần)
Chắc chắn là không,
vì ta biết được rằng Hòai Khanh vốn rất say mê tác phẩm Âm Thanh Và Cuồng Nộ (
the sound and the furry) của William Faulkner, đặc biệt là nhân vật Caddy mà
Hòai Khanh cứ nhắc đi nhắc lại hòai trong bài thơ có tên là Bài Tụng Từ:
Vườn xưa chừ cũng
hoang tàn
Người xưa chừ cùng phụ
phàng với xưa
Caddy em hiểu gì
chưa?
Thiên tài khổ lụy,
hoa thừa rụng rơi
Ôi nhan sắc ấy rợn
người
Dẫu lầm cát bụi muôn
đời vẫn ngân
Caddy sao em trắng ngần?
Sao em thổn thức như
vầng trăng phai
Sao em có mùi lá cây
Sao ta sống trải những
ngày điêu linh
(Hương sắc mong manh)
Nếu Caddy , một nhân
vật trong tác phẩm của Faulkner dù sống trong đọa đày tủi nhục nhưng lúc nào
cũng thoang thoảng thơm mùi lá cây, hay bà vú nuôi Dilsey dù làm việc quần quật
suốt ngày nhưng lúc nào cũng nghe bên tai lời cầu kinh từ những ngôi giáo đường
vọng về. Thì Hòai Khanh cũng thế, dù “vai mang thế kỷ buồn đau” nhưng lúc nào
cũng nghe tiếng vọng bên tai:
Một phương đã hiện Từ
Bi
Lửa bình tịnh đốt sân
si hận cuồng
(lục bát)
Trong tập thơ mới nhất
được in ở Hoa Kỳ, Hương Sắc Mong Manh (2006), thì ta thấy niềm hy vọng đó lại
càng mãnh liệt hơn nữa:
Hiểu ngầm sen nở đầm
xa
Là nhân gian hỡi
Thích Ca đã về
Người về đánh thức
cơn mê
Ác gian, thù hận tràn
trề khổ đau
Người về với ánh nhiệm
mầu
Mấy ngàn năm đã qua cầu
tử sinh
Đạo vàng ôi sắc hiển
linh
Muôn đời vẫn vọng câu
kinh độ trì
Muôn đời ánh đạo từ
bi
Sẽ xua quỷ dữ, sân
si, bạo tàn
Sẽ đem trả lại nhân
gian
Cuộc sinh tồn ngát
hoa vàng từ tâm.
(Điềm triệu của sắc
vàng)
Thì ra, sự đau khổ của
thi nhân không phải vì từ chối hay ghét bỏ cuộc đời mà vì quá yêu thương cuộc đời
nhưng đã bị cuộc đời từ chối tấm lòng ấy một cách phũ phàng. Bởi vậy, nhà thơ của
chúng ta không còn cách nào hơn là:
Van người xin hãy
thương nhau
Mai kia đất vẫn dâng
màu lưu ly
Và vẫn kiên trì hy vọng
một ngày nào đó con người sẽ không còn hận thù và tình thương sẽ đơm bông kết
trái:
Rằng thiên niên kỷ
mai sau
Máu người ắt sẽ làm
màu từ tâm
(Bản tự khúc LEONORA)
Nhưng tất cả những nỗi
đau khổ trên đều là nỗi khổ đến từ bên ngòai.
Có một nỗi khổ mà đã
trở thành nỗi ám ảnh kinh hòang không chỉ được Hòai Khanh thể hiện trong một,
hai hay ba bài thơ mà gần như trong tòan thể sự nghiệp thi ca của ông. Đó chính
là nỗi khổ về thời gian:
Nước xuôi lạnh một
giòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy mầu
thời gian?
Biết bao lần rồi thi
nhân đã:
Lang thang trong vạn
hồn chiều
Nghe mùa gãy đổ dưới
nhiều bến song
Bởi thế cho nên, ta
chẳng lấy gì làm lạ khi thi nhân gần như mang một niềm “ thù hận” đối với những
buổi chiều:
Tay tôi bóp những chiều
tà
Với cồn phố cũ với ga
ven rừng
Nhưng tại sao ông lại
“thù hận” những buổi chiều đến như vậy?
Hỡi em người của ta
yêu
Phấn son đâu khỏi
bóng chiều quay quanh
Không “thù hận” sao
được trong khi cứ:
Một lần quay mặt về
chiều
Thì tìm sao nổi mỹ miều
dấu xưa
Làm sao đợi làm sao
chờ
Làm sao còn mãi những
giờ yêu em?
Nỗi đau về thời gian
đó ta thường thấy Hòai Khanh lấy dòng sông ra để gửi gấm tâm sự. Thực ra, không
phải đợi đến Hòai Khanh mà cách đây hơn 10 thế kỷ Lý Bạch khi đứng nhìn sông
Hòang Hà cũng đã thở than:
Quân bất kiến Hòang Hà chi thủy
Thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
Quân bất kiến cao đường minh kính
Bi bạch pháp
Triêu như thanh ty mộ tuyết
Người thấy chăng! Nước sông Hòang Hà
từ trên trời xuống, một đi ra biển thì không
bao giờ trở lại.
Người thấy chăng! Nhà cao gương sáng
nhưng quá buồn vì mái tóc đã bạc trắng cả rồi
Hay như Appollinaire
nhà thơ của nước Pháp đứng trên cầu Mirabeau nhìn sông Sein mà xót xa cho những
mối tình trôi qua cầu đi theo dòng nước mà không bao giờ trở lại.
Nhưng Lý Bạch cùng
như Appoliniare chỉ có một bài nhắc đến dòng sông thôi. Với Hòai Khanh thì gần
như từ Dâng Rừng đến Lục Bát hay Gió Bấc, Trẻ Nhỏ, Đóa Hồng và Dế đến Thân Phận
đều có những con sông buồn thảm chảy qua.
Chính vì thế, khi muốn
chọn một bài tiêu biểu nhất về những dòng sông trong thơ ông, thì thật là khó
vì gần như bài nào đọc vào ta cũng đều thấy không phải chỉ là nỗi buồn của
riêng ông mà có lẽ còn là nỗi buồn “chết người” của mỗi người trong chúng ta nữa.
Tuy vậy, có lẽ ngòai
bài Ngồi Lại Bên Cầu trong Thân Phận, mà cách đây gần bốn thập niên những người
yêu thơ không ai là không biết đến nhất là bốn câu cuối:
Rồi em lại ra đi như
đã đến
Dòng sông kia cứ vẫn
chảy xa mù
Ta ngồi lại bên cầu
thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ
mọc hoang vu
Thì bài Trông Theo
cũng trong Thân Phận cũng làm xúc động không biết bao nhiêu người:
Bến sông này, bến
sông nay
Trăng xưa lạnh xuống
hàng cây gục đầu
Người xưa chừ biết là
đâu
Này trăng gió cũ này
câu giã từ
Lối đi vàng nhạt mùa
thu
Nghe lau lách động niềm
u uất buồn
Mắt người mang cả quê
hương
Lòng ta mang cả đọan
trường tháng năm
Nhưng cũng chính
trong Thân Phận, tập thơ có nhiều con sông buồn bã nhất chảy qua thì Hòai Khanh
lại viết:
Con sông nào đã xa
nguồn
Thì con sông ấy sẽ buồn
với tôi
Như vậy, nếu như thi
nhân lên đường tìm lại được nguồn cội của những dòng sông ấy thì thi nhân có
còn mang nổi sầu vạn cổ ấy không?
Trong Hương Sắc Mong
Manh, thi phẩm mới nhất Hòai Khanh có bài nhan đề là Sám Hối Tâm Kinh như sau:
Nhớ câu” vô sở tùng
lai
Diệc vô sở khứ” trần
ai nhãn tiền
Con từ sa cõi Phan
Duyên
Nếm mùi nghiệp chướng
lụy phiền não nhân
Tham sân như cát sông
Hằng
Đắm mê bóng sắc quên
thân phận mình
Một hôm sực nhớ câu
kinh
“không phải chỗ trụ
mà sinh tâm mình”
Nhân ngày Phật tổ đản
sinh
Con xin dâng tấm lòng
thành ăn năn
Nếu Hòai Khanh đã nhận
ra “không phải chỗ trụ mà sanh tâm mình” trong kinh Kim Cang thì tất nhiên ông
cũng phải nhận ra một điều tối quan trọng nữa mà Đức Phật đã thuyết giảng trong
kinh Kinh Cang:
Quá khứ tâm bất khả đắc,
hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc
Quá khứ không thể nắm
bắt được thì hiện tại và vị lai
cũng đều như vậy.
Nếu đã biết thời gian
là cái không thể nắm bắt được, thì tại sao ta phải đau khổ nhỉ?
Kinh Kim Cang (Vajracchedika
Sutra) phát xuất từ Ấn Độ, Ấn Độ có con sông Hằng (Gane) mà sử gia Will Durant
nói là “ cứ rộng dần đến thánh địa Bénares (Ba La Nai) mỗi ngày tẩy uế cho mười
triệu tín đồ, những chi nhánh của nó làm cho xứ Bengale và miền chung quanh
CalCutta hóa phì nhiêu. Tiến về phiá Đông thì xứ Miến Điện với những chùa giát
vàng ở Rangoon và con đường Mandalay chói chang ánh nắng “ (2).
Trong một bài thơ
Hòai Khanh đã nhắc đến dòng sông này:
Từ nơi ẩn dụ sông Hằng
Có trong tinh thể bội
phần chiêm bao
Có trong tinh thể gầy
hao
Là cơn trùng phục mai
sau vĩnh tồn
Niềm vô hữu của linh
hồn
Là niềm thao thức chấp
chờn lắt lay
Chính từ cõi thế gian
này
Con người bổng chốc đặt
bày hư không
Bài thơ có tên là Cõi
Tuần Dưỡng, mà Hòai Khanh đã làm để tưởng nhớ ngày Bùi Giáng qua đời.
Ta cũng cần nhắc lại ở
đây là Bùi Giáng là một trong hai ba người đã dịch và chú giải Heidegger nhiều
nhất tại Việt Nam hơn nữa thế kỷ qua.
Tại sao một thi sĩ lang
thang suốt đời như Bùi Giáng lại bận tâm nhiều đến Heidegger như vậy?
Trong bản dịch tác phẩm
Buông Xả Thanh Thản (Gelassenheit) của Heidegger trong phần phụ lục Hòai Khanh
cho người đọc biết lý do tại sao?
“ Cũng nên lập lại ở
đây là tất cà tư tưởng của Heidegger chính yếu đều năm trong cuốn Tính Thể và
Thời Tính(Sein und Zeit) , xuất bản lần đầu vào năm 1927, mà có người cho rằng
tác phẩm triết học ấy đã trở thành “một lọai thánh kinh có hệ thống”. Tác phẩm
này nhằm đặt lại vần đề Tính Thể hay Hữu Thể đã từng thống ngự tư tưởng triết
lý Tây phương suốt hai nghìn năm qua trong một trận đại chiêm bao là Quên Lãng
Tính Thể. Do đó, ma Heidegger đã “kiệt tận miên bạc bình sinh” ( chữ của Bùi
Giáng) để trả lại cho Tính Thể (Sein) vai trò xứng đáng của nó hầu cứu vãn những
gì đã mất mát. Sứ mạng của ông là “lập lại” vấn đề Tính Thể:
Một sự hồi phục trong
ý nghĩa làm lại triệt để, lần dò qua bao nhiêu ngõ ngách khác nhau để tìm lại
cái quá khứ bị quên lãng ấy từng đối đầu với các tử tưởng gia Hy Lạp đầu tiên
thuở bình mình của Triết học Tây phương” (3).
Đó là lý do vì sao
Hòai Khanh viết tưởng niệm Bùi Giáng lại có hai câu
Chính từ cõi thế gian này
Con người bỗng chốc đặt bày hư không
Chính vì đặt bày hư
không mà Tây phương thường gọi là chủ nghĩa hư vô (Nihilism), nên con người đã
tự lưu đày chính mình ra khỏi mái nhà xưa chăng?
Người ta nói rằng vào
những năm cuối đời Heidegger đã lui trở về rặng núi Đen (Forêt noire) sống
trong một túp lều tranh trên chiếc bàn ọp ẹp chỉ có vỏn vẹn tòan thể tác phẩm
Holderlin.
Heidegger làm gì
trong túp lều tranh ở rặng núi Đen đó?
Hòai Khanh cho ta biết
trong một bài thơ có tên là Forêt noire:
Về đây người lặng lẽ
ngồi
Để nghe tính thể lên
lời nguyên ngôn
Để nghe cay đắng linh
hồn
Lời xưa trót lạc bên
cồn trăng phai
Người xưa chừng luống
u hòai
Cội nguồi tư tưởng lạc
loài về đâu?
Và tất nhiên còn gánh
lên đôi vai gầy yếu của mình nỗi khổ xa quê của con người hôm nay nữa:
Từ khi tư tưởng lộn
đường
Con người chừng cũng
ngỡ ngàng…Quê Xưa?
Nhưng ta có quyền tin
rằng, ông chỉ thất vọng chứ chưa tuyệt vọng vẫn hy vọng một cách mãnh liệt rằng,
từ trong mê lộ con người sẽ phải tự tìm lại được con đường trở về của mình:
Rồi con người cũng mở
lòng
Đón sơ nguyên lại
trong vòng tay ôm
Phương Nam lại trỗi
ngọn nồm
Cõi tuần dưỡng lại mở
vòm vô biên
Dường như càng về già
thì Hòai Khanh càng sống trọn vẹn hơn với cái “Vòm vô biên” ấy, cái “trong tinh
thể bội phần chiêm bao” ấy. Đặc biệt là “từ nơi ẩn dụ sông Hằng”, dòng sông mà
khi còn tại thế ít nhất một lần Đức Phật đã dừng chân lại:
“Rồi đức Thế Tôn đi đến
con sông Hằng. Lúc bấy giờ, sông Hằng tràn ngập nước đến bờ đến nổi con quạ
cũng có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao,
có người cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi
cánh tay được co lại hay co cánh tay được duỗi ra, biến mất từ bờ bên nay và hiện
ra trên bờ bên kia vớ chúng Tỳ Kheo.
Đức Thế Tôn thấy những
người kia, người đang tìm thuyền, người đang tìm phao, người đang cột bè để qua
bờ bên kia. Đức Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn ứng khẩu cảm
khái:
“Những ai làm cầu vượt
biển trùng dương, bỏ lại đất sủng đầm ao, trong khi người phàm phu cột bè, những
người ấy thật là những vị được giải thóat bởi trí tuệ”(4)
Đọc đọan kinh trên
tôi nhớ đến bài Dấu Chân Từ Phụ của Hòai Khanh:
Cái gì hễ mất là còn
Hễ không là có hễ
tròn là lăn
Ngày xưa có một dấu
chân
Bước qua bãi cát sông
Hằng nhẹ tênh
Hôm đến Biên Hòa thăm
Hòai Khanh, khi ngồi nói chuyện trong phòng khách, nhìn lên vách tôi thấy ông
có treo hình cùa Đức Phật, xa hơn chút nữa là hình của Martin Heidegger. Tôi
nhìn hai tấm hình và tự nghĩ rằng, chắc bây giờ ông không còn buồn vì những “
dòng sông cứ vẫn cứ chảy xa mù” nũa đâu!
Vì chẳng phải ông đã
tìm lại được cội nguồn của một dòng sông rồi đó hay sao?
Thích
Phước An
2008
1 2 0