DƯƠNG
NGHIỄM MẬU
Tiếng sáo người em út
Về tới đầu ngõ, người
anh cả nghe thấy tiếng sáo, anh nhận ra tiếng sáo của người em út, tiếng sáo
không còn thô mộc, non nớt, chập chững những bước đầu đời mà nay âm thanh đã
trau chuốt và ở đó nghe một nỗi bồi hồi tâm sự. Người anh cả đứng im lắng nghe.
Bỗng tiếng sáo như reo vui làm người anh nhảy chân sáo bước vào nhà. Cánh cổng
mở rộng, vào tới sân người anh cả thấy em mình ngồi dựa cột hiên, đôi mắt như
nhắm lại và tiếng sáo vẫn rộn rã. Người anh bước chậm và nhẹ tới hiên nhà rồi
ngồi xuống bên. Thật lâu tiếng sáo mới ngừng lại:
-Anh đã về.
Người anh phác một nụ
cười:
-Khúc nhạc của em sao
hân hoan, anh nghe và thấy lòng vui.
Người em để ống sáo
xuống hiên gạch, hai tay khoanh lấy đầu gối.
-Anh về bao giờ lại
đi?
Người anh đứng lên,
nhìn ra khoảnh vườn nhỏ, mấy cụm hoa cải vàng, mấy trái mướp thả xuống từ cái
giàn thấp, giọng nhỏ êm:
-Anh về ở nhà.
Ngươi hàng xóm ló đầu
lên khỏi rào dâm bụt:
-Anh út, sao không
thổi tiếp, tôi đang nghe…À kìa, anh cả về đó sao?
-Dạ chào bác.
-Từ hôm qua tới giờ
tôi không sao ngủ được, hóa ra có anh cả về, để chút nữa tôi sang chơi, đi
đường xa thì có biết bao nhiêu chuyện…
Người láng giềng thụt
xuống. Người anh nói:
-Cha đâu?
-Cha nằm trong nhà.
Người anh đứng dậy,
bước lên hiên, mở cửa vào nhà. Bầu khí tĩnh lặng. Người anh từ trong nhà bước
ra:
-Cha đang ngủ, anh
không lên tiếng.
Người em đứng dậy gài
ống sáo lên hiên nhà, bước xuống sân đi vào nhà ngang. Người anh thơ thẩn trong
khoảng sân gạch. Vẫn cánh cửa xưa. Có chăng mái ngói nâu tươi nay đã rêu phong,
trên sân giữa những khe gạch đã có chỗ cỏ mọc. Cây mít lớn hơn và tàn cây rộng
hơn. Người anh nhớ tới người em gái kế. Người anh đi vào nhà ngang nơi người em
đang xúc thóc từ cỗ quan tài ra thúng.
-Chị bé đâu em?
Người em đứng thẳng
người:
-Chị bé chết ít lâu
sau ngày anh đi. Súng nổ từ phía ngoài cánh đồng.
Người anh đứng im.
Người em tiếp tục xúc
thóc ra chiếc thúng rồi bưng đổ vào chum để nơi góc nhà. Mồ hôi đọng trên trán,
chảy trên thái dương. Người anh đứng lại bên. Người em bốc một nắm thóc đổ vào
lòng bàn tay người anh:
-Anh coi, những hạt
thóc có tốt không. Năm nay được mùa nhưng thu hoạch không được bao nhiêu. Đồng
ruộng bỏ hoang ai nhìn thấy cũng như dao cắt ruột. Cả làng không còn một con
trâu. Hôm nấu xôi mới, cha nhắc tới anh và bảo: nếu thằng cả nó ở nhà…
Người anh quay mặt
đi, ngắt lời:
-Thôi để mùa sau.
-Mùa sau?
Người em nhắc lại
giọng lạnh và buồn.
Những hạt thóc cuối
cùng được vét ra khỏi cổ áo quan. Người anh đổ nắm thóc từ tay này sang tay
kia:
-Cha vẫn thường gọi
đây là những hạt ngọc. Nhiều khi ngọc cũng không giá trị bằng.
Người em nhìn người
anh, nụ cười ngậm ngùi. Người anh nhìn em: nó vẫn như xưa chẳng thay đổi gì,
lầm lầm lì lì…Người em quét sạch cỗ áo quan, lấy tay kỳ cọ trên lớp sơn bóng
rồi gõ vào thành gỗ:
-Gỗ gì không biết,
tiếng nó cũng lạ, anh nhớ không?
-Gỗ vàng tâm. Cha đã
kỳ công đi tìm nó để sắm áo cho ông nội. Anh nhớ…ông nội còn sống thì nay đã
hơn trăm tuổi.
-Anh nghĩ ông nội còn
sống?
-Cha đã tìm bao nhiêu
nơi, nào có thấy tông tích gì. Tù tội. Có khi xương còn nằm trong nhà tù nào
đấy…
-Anh khéo tưởng
tượng.
-Biết đâu đấy.
Người em lấy ra chiếc
ruột tượng, màu xanh hoa lý đã nhạt, người em nói:
-Anh nhớ không?
-Chiếc ruột tượng của
mẹ.
-Đúng rồi.
Người em gập một đầu
ruột tượng lại rồi mở ra đầu kia đổ thóc vào một đoạn ngắn rồi gấp đầu thứ hai
lại gọn gàng và đặt xuống sau cỗ áo quan:
-Chiếc gôi này êm
lắm.
Người em sờ tay lên
khắp cỗ áo quan, giọng đều đều:
-Sau khi đắp nâm mộ
chung cho bốn người, trong đó có chị bé, cha vỗ tay vào cỗ áo quan nói: có sẵn
áo quan đây mà nó đâu được nằm, cái số nó thế chịu thôi…Có thời nào mà chết
chùm, tan xương nát thịt chẳng còn nhận ra được. Rồi cha nhìn em bảo: không lẽ tao
đóng cỗ quan tài này cho mày?
Người anh lặng im
lắng nghe. Bao nhiêu cảnh huống của ngày tháng cũ, khoảng trống những ngay anh
vắng mặt:
-Anh nhớ ngày cỗ áo
quan được đóng. Còn em?
-Những hình ảnh mơ
hồ, lúc ấy anh đã lớn, em còn nhỏ. Từ đó nó ở bên em và những câu chuyện về ông
nội do cha kể lại.
Người anh lại gần để
tay lên thành cỗ áo quan:
-Hồi đó người ta ta
định xử bắn ông nội. Cha chạy ngược chạy xuôi lo tìm gỗ về cho thợ đóng gấp.
Nhưng ông nội không bị xử bắn, ngươi ta kết án chung thân khổ sai, biệt xứ. Ông
nội bị đưa đi chẳng bao giờ thấy mặt. Cha kêu đám thợ mang đi sơn cỗ áo quan
rồi được mang vào nhà ngang, nó ở từ đó tới nay. Những ngày đầu cỗ áo quan làm
cho nhiều người sợ, nhưng dần thành quen thuộc, có khi nó dùng đựng thóc, lúc
đựng ngô, lúc nhỏ có lần anh và em nằm trong đó trốn cho chị bé đi tìm…
Người em đứng ở đầu
cỗ áo quan, đưa hai tay xuống dưới thử nhấc lên:
-Nặng quá. May mà có
anh trở về…Lúc trước có lúc em nghĩ nếu mình chết chắc cha sẽ bỏ mình vào đây,
nghĩ thế thấy khiếp quá, bây giờ thì anh đã về và em chưa chết.
-Có khi nào em hay
cha cho rằng anh đã chết không?
-Mỗi lần nhắc tới
anh, cha tép miệng rồi mỉm cười: nó có còn sống thì cũng như đã chết …Nhưng anh
cũng đã trở về, dù sao em cũng mừng bỡi vì chỉ một mình em thì làm sao mà tha
cỗ áo quan lên nhà trên. Anh giúp em một tay.
Người anh nhíu mày:
-Mang lên làm gì?
-Cho cha nằm.
Người anh lặng đi đôi
mắt mở lớn nhìn người em không chớp:
-Cha chết rồi sao?
-Cha đi tối hôm qua…
Người anh vụt bỏ chạy
lên nhà trên, tiếng bước chân, tiếng cửa va đập vang động rồi tiếng khóc oằn
lên. Người em trở ra hiên nhà lấy cây sáo trúc xuống và bắt đầu thổi một khúc
nhạc, âm thanh nhảy nhót vui tươi. Người anh từ trong nhà bước ra, nước mắt ràn
rụa.
Người em ngừng thổi sáo. Người anh nói giọng khô:
-Cha chết mà em không
buồn sao?
-Cha già thì chết,
tại sao lại buồn? Anh khóc, cha có sống lại không? Anh có hết đau khổ không?
Cha nói với em: cả đời không làm điều gì quấy, không có gì phải hối hận, cha
nhẹ lòng khi nhắm mắt có con ở bên. Con hãy thổi sáo cho cha nghe…Và em đã thổi
sáo từ đêm qua tới giờ. Sống, chết là lẽ bình thường. Ngày tháng và đường xa đã
dạy cho anh những gì?
Người em đưa sáo lên
thổi, những âm thanh dìu dặt bay lượn như đang quyện vào trong gió chiếm lĩnh
cả khoảng không gian bao la giữa trời và đất. Buổi chiều đang xuống nhẹ nhàng.
Đàn chim sâu về kêu ríu rít trên những ngọn cau, trong tàn thấp của cây hoa
ngâu. Tiếng chuông thu không vẳng đưa từ xa lại trong buổi chiều tĩnh mịch.
Người em hỏi:
-Bao giờ anh lại đi?
-Đi đâu?
-Đi khỏi nhà.
-Em không muốn có anh
ở nhà sao?
-Em nghĩ: anh không
phải là người để sống ở trong nhà, lại nữa bây giờ cha đã mất…Từ lúc em lớn lên
đến nay em thấy có mấy khi anh sống ở nhà…Chị bé đã chết, bao nhiêu người đã
chết, bao nhiêu đổi thay, anh đâu có sống với những điều đó?
Em không nghĩ là có
lúc anh trở về…chuyện còn dài. Bây giờ em muốn tẩm liệm cho cha và nhập quan.
Người em đi xuống nhà
ngang, người anh bước theo không nói một tiếng. Hai anh em rất khó khăn mới
khiêng được cỗ áo quan lên nhà trên. Trước hết người em đốt hai ngọn nến trên
bàn thờ rồi đến chỗ cha nằm cầm lên tấm nhiễu điều mở rộng trải vào trong lòng
cỗ áo quan. Nhẹ nhàng, cẩn trọng người em bế người cha đặt vào trong cỗ áo
quan, đầu gối lên cái ruột tượng nhồi thóc, tấm nhiễu được phủ kín lại. Hai anh
em nhấc tấm ván thiên lên. Người anh ngừng lại:
-Anh muốn nhìn mặt
cha lần nữa.
Người em để tấm ván
thiên xuống. Người anh mở tấm nhiễu nhìn lên mặt người cha mất đã nhắm măt lại
êm ả, những sợi râu bạc trắng như cươc, những nếp nhăn trên trán như những nét
khắc trên mặt tượng. ngươi em nói:
-Cha nói: anh không
giống cha, anh giống mẹ. Em nghĩ chắc anh giống ông nội.
Người anh không nói
kéo tấm nhiễu lên mặt người cha. Người em nói:
-Em không nghĩ cha
chết, cha đang ngủ.
Tấm ván thiên được
đậy lại, những con cá gỗ được đặt vào đúng chỗ, người em dùng cái vồ đập vào
những con cá gỗ cho tấm ván thiên khít lại. tiếng vỗ nghe vang dội. Người anh
ra ngồi trên bộ ngựa ở gian bên. Người em thắp ba nén hương cắm vào chiếc lư
sành. Khói hương nghi ngút. Người em nói:
-Sáng mai đưa ra đồng
-Em không báo cho họ
hàng làng xóm?
-Hãy để cho mọi người
thêm một đêm yên tĩnh. Bây giờ để em đi nấu cơm ăn.
Người anh ngồi lại ở
nhà trên, mùi hương trầm thơm ngát. Anh sáng vàng tỏa không đều trong ba gian
nhà với những thân cột lớn. Người anh đi xuống nhà dưới, người em lấy gạo vào
giá mang ra bể nước ngồi vo rồi đổ vào nồi. Khi người anh bước vào nhà bếp lửa
đang cháy hồng, nồi cơm đang sôi. Người em gạt những hạt bọng gạo trong bếp ra
nhặt bỏ vào trong miệng. Cơm chín, người em lau chiếc mâm gỗ rồi xới bát cơm
đầy, so ba đôi đũa, múc một chén tương rồi bưng lên nhà trên để nơi chiếc sập
giữa nhà trước cỗ quan tài. Đứng trước mâm cơm người em nói:
-Cha kể: xưa có một
người nghèo hèn phải đi làm mướn nuôi thân, ngày giỗ cha không quên chỉ còn
biết kiếm một cái bát, múc lấy một bát cám lợn rồi đội lên đầu mà khấn với
cha…Cha chỉ mong sau này khi cha đã chết, mỗi lần giỗ nhớ nấu cơm cho ngon, một
nén hương, một bìa đậu phụ, thêm một ít rau luộc là được, suốt đời cha ăn những
thứ đó…
Hai anh em bưng cơm
lên, trên mâm cơm còn một bát cơm với đôi đũa để bên. Người anh đưa chén cơm
lên miệng, mùi cơm thơm mộc mạc. Người anh chảy nước mắt.
Người em nói:
-Sao anh khóc?
-Anh nghĩ tới những
ngày xa nhà, lúc về thì cha đã mất…Người anh để bát cơm xuống mâm. Người em
buông đũa và úp cái bát không xuống mâm. Một lúc người em nói với giọng kể đều
đều:
-Có một câu chuyện
cha kể đi kể lại nhiều lần trong hững bữa cơm tối, nó như một câu chuyện khôi
hài, để em kể lại cho anh nghe: Một người cha nói với con: để có ăn hãy ra đồng
làm ruộng. Người con nói chắc gì được ăn mà làm. Người con không ra đồng. Người
cha kiên nhẫn cày ruộng, gieo mạ, cấy lúa, bón phân, làm cỏ, tát nước cho đến
khi lúa chín. Người cha bảo con lúa chín rồi thì hãy ra gặt về mà ăn. Người con
bảo gặt về có chắc được ăn không. Và người con không chịu ra đồng gặt lúa.
Người cha kiên nhẫn gặt lúa, gánh lúa về, đập lúa, phơi lúa, giã gạo rồi nấu
cơm. Khi ngồi xuống ăn cơm, người cha hỏi con: đã chắc ăn chưa? Người con nói:
chưa vào miệng thì chưa chắc. Người cha tức giận đứng lên. Thấy người cha nổi
giận, người con đứng lên bỏ chạy. Người cha cầm lấy đôi đũa cả đuổi theo. Khi
trở về nồi cơm đã bị chó ăn hết. Người con đứng ở ngoài cửa nói đã chắc đâu…Mỗi
khi kể tới đó cha cười lớn và nói: cái ông cha này sao nóng giận vô lối. Con hư
thì phải dạy còn mình thì thấy cái phải làm thì làm thôi. Mình nhà nông, có làm
thì có ăn…cha mẹ sinh con ai dễ sinh lòng…
Một khoảng lặng.
Người anh nhìn bát cơm đầy để trên mâm, cạnh đôi đũa:
-Em có nghĩ là cha đã
không bằng lòng anh?
-Cha nói: anh sống
thay cho cha.
Người anh im lặng lúc
lâu, người anh nhìn vào mặt người em hỏi:
-Còn em?
Người em út bưng bát
cơm còn nguyên trên mâm ăn tiếp, lúc đặt bát xuống người em nói:
-Anh về ở nhà luôn?
-Anh không đi đâu
nữa.
Người em đứng lên
giọng đầy xúc động:
-Anh về rồi thì em
đi. Lúc trước còn cha, em dù muốn cũng không thể đi được. Ai trông nom cha lúc
về già? Anh đi hẳn anh nghĩ rằng ở nhà đã có em, cuối cùng dù thế nào cũng có
chỗ để trở về. Bây giờ anh đã trở về và em có thể lên đường…
Sau bữa cơm tối,
người em ra ngồi ngoài đầu hiên nhà lấy ống sáo thổi tiếp, người anh ngồi đựa
lưng vào hiên lắng nghe. Đêm qua nhanh. Lúc bình minh vừa hé người em ra khỏi
nhà. Lúc mặt trời lên ở ngọn cau thì người em trở về cùng với những người họ
hàng và dân làng. Mọi người bắt tay khiêng cỗ quan tài trên vai đi ra cánh
đồng. Không có tiếng khóc. Mọi người nói với nhau về người cha lúc còn sống,
những câu chuyện không đầu không đuôi, xen kẽ là những tiếng cười vì câu chuyện
cũ. Người em đi lên phía trước vừa đi vừa thổi sáo. Người anh đi phía sau cỗ
quan tài. Huyệt đào trên thửa ruộng khô màu đất tươi. Cỗ quan tài được đặt
xuống và đất được đổ lên. Người anh lấy bó hương rồi cắm lên ngôi mộ mới. Người
em ngồi trên một bờ ruộng nhìn về phía chân trời. Mọi người đã ra về. Người anh
lại gần người em:
-Bao giờ em đi?
Người em đứng lên:
-Sao anh không giữ em
ở lại?
-Em đã lớn, như ngày
xưa lúc anh đi, cha đã không nói gì. Đi hay ở là ở nơi em.
Người em ra đứng bên
mộ cha để sáo lên môi. Người anh nghe thấy một khúc nhạc bi thiết. Khi nắng đã
lên cao, người em cắm ống sáo lên mộ cha rồi cũng trở về với người anh. Người
anh nói khi bước chân vào sân nhà:
-Không biết lúc em về
thì anh còn sống không?
Người em đứng gần
hiên nhà:
-Anh nghĩ em có thể
bỏ nơi này mà đi được sao? Ai cũng bỏ đi cả thì ngôi nhà này ai coi, ruộng ai
cày và những người như anh lấy đâu nơi để trở về?
Dương
Nghiễm Mậu
Sài Gòn
12/1974
Nguồn:
THƯ QUÁN BẢN THẢO SỐ 55
1 0 3