Thật ra thì Hưng cũng không phiền trách điều gì khi tôi xếp
đặt chỗ ngủ cho mọi người và dành cho nó căn gác xép. Hưng là con trai, lại
nhỏ nhất nên phải chịu khó nhiều nhất, mẹ tôi thường bảo vậy. Thế là căn
phòng trên, bên phía phải bàn thờ đương nhiên thuộc về tôi. Tôi ngại vô cùng
khi phải leo lên leo xuống cái cầu thang gỗ nhỏ xíu với căn gác sát mái nhà,
lúc nào cũng có cảm tưởng mình sẽ gặp bất kỳ một rủi ro nào cho mỗi lần sơ hở.
Hơn nữa, tính tôi vốn lười. Nằm trên đó, có khi cả đêm tôi phải nhịn khát, hay
phải mệt nhọc lắm để đi xuống nhà dưới mỗi khi cần điều gì. Ngôi nhà ba tôi vừa
làm xong, như một tính toán dài lâu, kết quả của cả một đời người. Sống cái
nhà già cái mồ, ông vẫn bảo vậy, và dù khổ cực cách mấy ông vẫn tằn tiện chắt
bóp để hoàn thành niềm mơ ước đó. Cũng được, tôi nghĩ, ông cũng đã già rồi. Mấy
năm trước, khi mới hồi cư về, gia đình tôi vẫn chui rúc trong căn nhà cũ kỹ, có
cả mấy chục năm, của ông bà ngoại để lại. Mái ngói âm dương trĩu xuống và vách
không còn một lớp vữa nào ngoài cái màu hoen kỳ dị do những lớp ngày tháng chằng
chịt phủ lên. Sống trong căn nhà đó, tôi đã có dịp thấm thía thế nào là nỗi
túng thiếu cơ cực của một gia đình đông con, cùng những đe dọa thường xuyên của
thiên tai, nhân nạn đang trùng trùng vây bũa. Mẹ tôi đã từng ôm Hưng ngồi khóc
suốt đêm, ngày tôi còn nhỏ, vô vọng đón chờ cái tin bị bắt của ba tôi. Cũng như
bọn tôi đã kinh hãi ngồi ôm nhau ở một góc sân, nhìn từng tốp người có súng
xông vào nhà, vơ tất cả những gì trong đó, chất lại thành đống trước bàn thờ và
nổi lửa lên đốt. Kết quả, sau những ngày đôn đáo, sợ hãi, mỏi mòn, ba tôi đã về
đưa gia đình lánh nạn lên xóm trên, theo lệnh của những ông làng hồi đó.
Tôi còn nhớ mãi nét mặt của mẹ tôi, đêm cuối cùng khi đồ đạc đã dọn xong. Trí
nhớ ấu thơ ngày nay còn lại, với sự chỉ dẫn của tiềm thức mơ hồ, là những dòng
nước mắt chảy ràn rụa trên khuôn mặt nhăn nheo, xương xẩu, vốn đã thiếu thốn và
lo nghĩ quá nhiều của mẹ tôi. Một thứ đành tâm, nỗi nhẫn nhục chịu đựng, một ức
chế không kiềm hãm được, trước cái uy nghi của mệnh số quá phũ phàng. Và mẹ vẫn
lui cui xếp đặt, không nói một lời nào. Tôi và lũ em đã ngủ thiếp đi, trong cái
ám ảnh không rời là mình đã mất đi một cái gì quý báu nhất. Tôi chắc mẹ tôi vẫn
thức suốt đêm hôm đó, vì sáng hôm sau nhìn bà, tôi thấy hai mắt sưng húp lên và
gò má lại hóp vào nhiều thêm nữa. Nhưng mọi việc rồi cũng xong. Phải xong và cuộc
sống lại tiếp tục với những chịu đựng và phấn đấu của ba mẹ tôi, để cố gắng
không bỏ rơi chúng tôi nửa chừng. Ngôi nhà cũ trống trơn, trơ gan giữa đám đất
bỏ hoang đó, sau này được sửa sang lại đôi chút để chứa lại gia đình tôi buổi hồi
cư. Cũng trong những ngày tháng mới thu dọn cho đời mình đó, tôi đã viết được
những bài thơ đầu tiên, lãng mạn và đẹp như của tuổi hồn nhiên. Có một thứ gì
khó diễn tả được âm ĩ trong tôi, và nung nấu, muồi chín để thúc đẩy tôi viết một
cách rất dễ dàng. Những vụ hè, những ngày tết, những sum họp giỗ chạp, tất cả đều
đẹp dưới mắt một đứa con trai mới khám phá được ở mình những dấu hiệu của sự
trưởng thành. Tôi đã học, đã sống thật đầy đủ, đã dọn sẵn cho hồn mình những
tháng năm đẹp nhất. Dĩ nhiên, kết quả đưa đến có khi ngoài những ước muốn của
tôi hồi đó. Hành động nhiều lúc theo tình cảm và bản năng, cũng như ăn uống
cùng sự chở che chia xẻ của mọi người. Sau này, khi đã sống trong ngôi nhà gạch
mới, khang trang, tôi mới khám phá ra được tôi hồi đó.
Phòng của tôi ở sát mé vườn trầu, kề với hai cây bưởi thật
lớn. Tôi bị bắt buộc phải xếp đặt cho đàng hoàng, vì ở sát phòng khách và bàn
thờ. Sách vở thứ lớp, và buổi sáng trước khi đi làm, phải nhìn một lượt xem có
gì trái mắt hay không, ngay cả cái ăng ten radio cũng pải hạ thấp xuống, nghĩa
là mọi thu xếp dù nhỏ nhặt đến đâu cũng phải đàng hoàng. Dì tôi chắc sẽ cằn nhằn
suốt buổi, nếu bà vào quét dọn và nhận thấy một chút cẩu thả nơi tôi. Hôm đầu
tiên mới dọn xong, em gái tôi dưới phố về, đứng chống tay ngắm nghía căn phòng
và chép miệng. Được lắm. Triệu chứng sắp lấy vợ đây. Điệu này phải báo tin mừng
cho cô ấy mới được. Dĩ nhiên là nó hài lòng vì khỏi phải mất nhiều công cho
mỗi bận về, như những lần còn ở trong nhà cũ.
Có một điều là trong khoảng thời gian này tôi sống hết sức
khó khăn, nếu không nói là không cảm thấy một chút thích thú nào mỗi khi bước
vào căn phòng hay nằm nghỉ trên chiếc giường ngay ngắn. Tôi thưa ở nhà hơn, và
ngày trước mỗi khi đi xa nôn nóng về nhà bao nhiêu, thì bây giờ ở nhà, tôi lại
mong có dịp để đi. Thật là mệt nhọc quá chừng với cái tâm trạng lúc nào cũng rỗng
tuếch, hay đầu óc trống trơn không một chút gì trong đó, tôi nghĩ thế. Cầm một
quyển sách trên tay, tôi tự nhiên cảm thấy mình khó lòng nuốt trôi nững trang
sách nhằng nhịt chữ, và mỗi khi ngồi vào bàn viết lại cảm thấy ngao ngán, ê chề.
Cái gì đã rữa sạch hết trong tôi những vốn liếng đã chắt chiu và nuôi dưỡng bấy
lâu, khi tôi bắt đầu thở cái không khí mới mẻ đó. Tình cảm không chai đá, nhưng
tự nhiên không một triệu chứng nào có thể vun bén để có thể bắt mồi. Bạn bè mỗi
bận về chơi, vẫn ngồi uống trà ngoài hiên với tôi, và tuy không nói ra, tôi
cũng biết chắc họ thấy chỗ ngồi của mình cũng xa lạ hẳn. Tôi đâm ra gắt gỏng với
mọi người.
Mấy hôm nay trời mưa to gió lớn. Tôi nằm vặn nhỏ chiếc
radio ở đầu giường trong một trạng thái biếng lười rỗng tuếch. Tôi nghĩ mông
lung và chẳng ra đầu đuôi chuyện gì. Trí nhớ luôn luôn bị dẫn dắt vào những chốn
nơi nào xa lạ và kỷ niệm cứ khơi động chập chờn không thứ lớp. Tôi vẫn không
làm gì được sao? Tôi bực dọc đứng dậy đi ra ngoài. Đèn trên gác còn sáng. Hình
như Hưng đã ngủ quên. Tôi mò mẫn đến cầu thang và leo lên. Tiếng mưa nghe rõ dần
và khi đã ngồi xuống chiếc ghế nhỏ về phía đầu hồi trên, tôi nghe rõ cả
tiếng gió bên ngoài. Trong giây phút đó, tôi chợt nghe một chút gì len lén
trong tôi, âm ĩ, y hệt như cảm giác đã có hồi còn ở trong căn nhà lụp xụp lúc
trước. Tôi tê người đi trong một vài giây, và im lặng, sững sờ. Tôi len lén áp
tai vào cửa sổ, đón nhận một lúc nhiều âm thanh khác nhau, và phân biệt rõ
ràng. Tiếng lách cách nơi mặt ván cửa sổ, tiếng lộp bộp trên mái nhà, tiếng rì
rào trên lá, ngay cả từng đợt rít của từng cơn gió nhẹ thổi qua. Tất cả đều được
đón nhận trong tôi, bằng một niềm cảm khoái tuyệt vời, vượt lên cả thời gian và
mọi diễn biến, đổi thay. Tôi nhớ đến một tác giả, ghi lại cảm giác của y khi
nghe tiếng mưa rừng. Nếu một người đã mất mẹ mười năm, một hôm bỗng nghe tiếng
mẹ gọi mình, thì cảm giác của hắn khi nghe tiếng gọi của đất trời cũng y như thế.
Tôi vẫn ngồi yên không động đậy, và thêm vào đó một chút lo sợ, vẩn vơ. Không
làm sao ghi nhận hết mọi tâm trạng lúc này, tôi với tay lên chiếc phảng Hưng
đang nằm, kéo nhè nhẹ tấm chăn, trải xuống sàn gác và nằm im. Quê hương của
tôi đó. Một sinh vật không thể sống thiếu đất trời, không khí. Căn nhà cùng
niềm mơ ước tuổi thơ chợt sống dậy mãnh liệt trong tôi. Hơi đất bên ngoài bốc
lên, đưa vào cùng với mùi ngai ngái của lá cây, tiếng réo rắt của côn trùng,
càng lúc càng dìm tôi vào cơn mê sảng khoái. Tôi đã gặp, nói như kiểu mấy
người đi tu tầm đạo. Và cùng lúc đó, bao nhiêu tội lỗi, đắng cay, nhục nhằn, đều
được gội sạch hết, trong tôi. Tôi chợt nhớ đến lá thư của người bạn ban chiều
và muốn viết trả lời hắn ngay lúc đó. Trong thư hắn cho biết đã thuyên chuyển về
một đơn vị mới ở thành phố, làm việc trong ngôi nhà mấy tầng, nhưng cảm thấy xa
lạ và không tìm được một chút gì mới mẻ cho đời sống. Bọn ta thiếu ánh sáng
và không khí thì phải, hắn bảo thế. Bây giờ tôi chợt hiểu, bởi chính tôi
cũng đã như hắn, đã đánh mất quê hương của chính mình, quê hương được vun xới bằng
những vốn liếng thơ dại ngây ngất của buổi đầu đời. Mỗi kẻ đều có một nơi chốn
để trở về. Hãy trở lại với những tình tự tha thiết đó đang ngày đêm réo gọi.
Tôi chồm lên và thức Hưng dậy, mở tung cánh cửa sổ nhìn ra ngoài trời. Hình như
Hưng cũng cùng một tâm trạng như tôi. Cả hai anh em ngồi thu mình, im lặng nhìn
ra khuôn cửa sổ. Mưa buồn thiệt – Ừ buồn. Tôi đáp lời Hưng lơ đãng.
Bây giờ tôi mới biết tôi nhận được tôi, cùng lúc với sự
thức tỉnh đánh tan cái u mê dày đặc đã chiếm gần hết một quãng thời gian dài.
Tôi nằm lại xuống sàn gác và ngủ thiếp đi trong tận cùng nỗi ngây ngất thơ dại
đó./.
VÕ TẤN
KHANH
9 3