Monday, November 12, 2012

63. NGUYỄN VY KHANH Hiện tượng ấn phẩm xám



NGUYỄN VY KHANH

Hiện tượng ấn phẩm xám
và những người viết trẻ
thời cuối của giai đoạn văn học
1954 - 1975

Nguyễn Vy Khanh


Những Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Duyên Anh, Nhật Tiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, v.v. đã là những tác giả và hiện tượng đáng kể của văn học miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, nhưng hai hiện tượng ấn phẩm xám và những người viết trẻ theo thiển ý quan trọng và đáng kể không kém, nếu muốn có cái nhìn nghiêm chỉnh về giai đoạn văn học này. Cả hai hiện tượng sống động ở những năm cuối của thập niên 1960 đầu thập niên 70. Khi chiến tranh chính thức chấm dứt ngày 30-4-1975, các nhà văn thơ trẻ chưa kịp phát triển, thi thố hết tài năng đã phải vứt bỏ hết vì ngay bản thân đã còn phải tù tội, cải tạo, đi chui, vả chết choc, thất tán. Tác phẩm, sách báo của người trẻ cùng chung số phận của cả miền Nam bị kẻ cưỡng chiếm cấm đoán, thủ tiêu.

Hiện tượng thứ nhất văn chương xám qua các tạp chí phần lớn in ronéo và không giấy phép cũng như nạp bản: tờ Hành Trình của nhóm giáo sư Nguyễn Văn Trung (10-1964 đến 12-1965, tức ra được 9 số thì đình bản vì bị bộ Tâm lý chiến ra lệnh tịch thu), Thái Độ (7-1966, các số sau khá hơn được in ấn bản typo nhưng bị kiểm duyệt bôi đen hoặc loang lỗ những đoạn trống) do Thế Uyên chủ động, Trình Bày (10-1966) của Diễm Châu. Cùng với ca nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, mảng văn học này đã gióng tiếng nói tiêu cực, phản diện, ngược dòng,… cho văn nghệ miền Nam thời chiến tranh cao độ. Học sinh, sinh viên cũng đã có những ấn phẩm thơ truyện và báo chí in ronéo, , nhiều người về sau tiếp tục sinh hoạt văn nghệ chung, những “tác phẩm” đầu tay này thường hực lửa hoặc tích cực năng nổ canh tân, làm mới thơ văn cũng như lý luận. Một số “nhà xuất bản” như Đại Nam Văn Hiến của Thế Phong cũng in sách bằng máy ronéo, từ thơ, truyện đến cả biên khảo, dù cá nhân người chủ trương có “hiện tượng” nhưng dù gì thì nhờ phương pháp “xuất bản” này mà Cao Mỵ Nhân có tập Thơ Mỵ đầu tay (1960), Hoàng Khởi Phong có tập Mặt Trời Lên (1967), riêng Thế Phong để lại nhiều tập biên khảo và bút ký văn học đáng kể!

Ở thủ đô, nhà Trình Bày cho ra đời một số tác phẩm “nóng” như truyện của Thế Nguyên (Hồi Chuông Tắt Lửa, …), truyện của Trần Quang Long (Vực Thẳm Và Hy Vọng 1966, Bông Cúc Vàng 1967), truyện dịch của Diễm Châu (Câu Chuyện Năm Mới, dịch A New Year’s Fairy Tale của V. Dudintsev, 1966), … Ở Phan Rang, nhà Ý Thức in ba cuốn Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang, Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi và Những Vì Sao Vĩnh Biệt của Trần Hoài Thư, Cát Vàng của Lữ Quỳnh, …, những “nhà” xuất bản Con Đuông, Sóng Việt ở Cần Thơ cũng in ronéo. Nhà Văn Mới ở Sài Gòn in truyện, biên khảo cũng như Thi Vũ ở Paris in thơ với chừng một trăm bản để tặng chứ không bán; “ấn bản cho thân hữu” mở một khuynh hướng thụt lùi đáng ngại ngay từ thời đó chứ không riêng gì hiện nay ở hải ngoại cũng như trong nước! Lữ Quỳnh in xong tập thơ, nhắn tin trên tạp chí Văn “Thơ Lữ Quỳnh đã in xong. Các thân hữu liên lạc với tác giả ở KBC 4781 để nhận sách” (Văn 138, 1969). Nhóm Khai Phá ở Châu Đốc ra tạp chí và xuất bản tác phẩm của Ngô Nguyên Nghiễm như Người Hành Giả Và Khúc Trường Ca Sinh Tử, Dấu Chân Gió Ngược, Ngọn Gió Hơi Cuồng (chung với Lưu Nhữ Thụy), Lên Đồi Hùng Bát Trăng Vàng của Nguyễn Thành Xuân, v.v.

Tạp chí Văn số 51 (1966) tuyển đăng một số nhà thơ trẻ viết về tuổi trẻ, tình yêu và chiến tranh và giới thiệu rằng “Thơ buồn nhưng không có giọng than van. Hình như tuổi trẻ Việt Nam đã tập chấp nhận, đứng thẳng trước mọi hoàn cảnh …” (tr. 143). Trong số đó có thơ của Lâm Chương, Thành Tôn, Chu Trầm Nguyên Minh, Nhữ Đình Toàn, … và một số khác mà về sau người đọc không còn nghe nói đến.

“Đêm bắt đầu yên tĩnh trên đồng cỏ xanh
Đêm quấn quýt quanh những vòng thép gai hoen rỉ
Chiếc xe đò vội vàng trở về thành phố
Anh bồi hồi đón chuyến buýt cuối cùng 
Hành khách chật thản nhiên như tượng
Không ai nói một lời”
(Nhữ Đình Toàn, Trên Xe Ô Tô Buýt, Văn 51, tr. 145).

Cũng tạp chí Văn, số 187 (1-10-1971) với chủ đề Khi Mùa Thu Tới làm một tuyển tập những cây bút trẻ, ban biên tập ghi là nỗ lực giới thiệu sau cùng, trong số này có thơ của Hoàng Lộc, Yên Ngàn, Nguyễn Văn Ngọc, Võ Chân Cửu, Khê Kinh Kha, … và văn của Nguyễn Mộng Giác, Hồ Minh Dũng và Mường Mán.

Về truyện ngắn, tạp chí Văn số 197 (1-3-1972) giới thiệu sáu người viết trẻ là Trần Hoài Thư (Bệnh Xá Cuối Năm), Mang Viên Long, Mường Mán, Định Nguyên, Phan Cung Nghiệp, Phạm Quang Phước. Nhà văn đàn anh Mai Thảo khi giới thiệu hiện tượng người viết trẻ truyện ngắn cho rằng họ “làm sống lại thể truyện ngắn, đem lại cho truyện ngắn hơi thở, một kích thước và những triển vọng mới sau một thời gian bị lu mờ trước ngọn triều tràn ngập của thơ tự do và các tác phẩm truyện dài. (…) Chúng ta không chỉ nhìn thấy những nhà văn trẻ sống và viết. Chúng ta còn nhìn thấy họ lên đường. Và mang theo thể truyện ngắn vào một lên đường mới” (tr. 2). Thời Tập cũng làm một tuyển tập Nhà văn trẻ (số 7, 6-1974), giới thiệu Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Phạm Thiên Thư, Cung Tích Biền, Ngụy Ngữ, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Đạt, Phù Hư, Nguyễn Mai, Hoàng Ngọc Tuấn. Tạp chí Văn trở thành giai phẩm với luật mới số 007 về kiểm duyệt, trong số áp chót (3-1975), Mai Thảo đã giới thiệu những triển vọng mới, 13 cây viết trẻ nhất của giai đoạn lần đầu xuất hiện, về sau phần lớn không thấy tiếp tục ngoại trừ Phạm Ngũ Yên với truyện ngắn Bóng Mát. Mai Thảo là nhà văn lớp đàn anh có công giới thiệu và khám phá nhiều tài năng mới. Họ lên đường, không những trên tạp chí Văn và Thới tập mà cả trên các tạp chí khác như Bách Khoa, Văn Học, Vấn Đề, Khởi Hành, Chủ Đề, Văn Chương, … nhưng chưa đủ thời gian để thẩm định vai trò, giá trị, thì cả miền Nam chính trị cũng như văn học đã bị xóa bỏ (*).

Thi ca và văn xuôi trước tình cảnh cực đoan, cùng khốn vẫn lớn dậy, vươn lên. Tình yêu, niềm tin và ngậm ngùi cay đắng, bất lực. Phân chia tả hữu không cần thiết vì tiếng nói của họ là tiếng phản kháng, tiếng dân kêu, tiếng nói tuổi trẻ không chỗ đứng, chỗ thở, … Người viết phần lớn không lập thuyết cao siêu, nhưng họ tỏ ra sống những tấn nặng nề của oan khiên lịch sử. Họ đã đứng thẳng trên trường văn thơ (cũng như xã hội), xác định cái tôi, như những người trẻ, và cũng đã nằm xuống đổ máu cho tổ quốc hoặc phải lê lết thân tàn phế trên khắp mọi vùng đất nước lo sống còn. Trẻ ở đây là nói đến hiện tượng xuất hiện, và họ đã đem đến cho văn học lúc bấy giờ tinh thần làm mới, tinh thần trẻ cần thiết cho một văn học và xã hội đang thoái hóa hoặc tự thỏa mãn với những thành tựu của lớp văn nghệ đàn anh. Lớp đàn anh này trên các tạp chí như Tin Sách, Bách Khoa, … đã nhìn những người viết trẻ như những người làm văn nghệ rời rạc, lẻ loi, thiếu hợp tấu, mà ngay Nguyễn Mộng Giác, một cây viết mới xuất hiện thời bấy giờ sớm nhập quỹ đạo Võ Phiến, cũng đã phê bình “lớp người mới lâu lâu gióng lên một tiếng đàn chùng lẻ loi, không thành được một hợp tấu khúc” (“Nghĩ Về Thơ, Truyện 1974”. Bách Khoa, Xuân Ất Mão 1975, tr. 27). Bi quan chăng, nhưng chính Võ Phiến lúc bắt đầu cũng đã tự lập nhà xuất bản Bình Minh ở Qui Nhơn để in hai tập truyện đầu tay, sau nhờ văn phong và công việc đúng ngành thông tin, kiểm duyệt, nên nhập vào dòng chính ở thủ đô sớm!

Họ là những ai? Ở đây chúng tôi xin nhắc một số người viết đã có tác phẩm xuất bản: Phạm Cao Hoàng (Đời Như Một Khúc Nhạc Buồn 1972, Tạ Ơn Những Giọt Sương 1974), Lữ Quỳnh (Sông Sương Mù, Cát Vàng 1972, Những Cơn Mưa Mùa Đông 1974), Nguyễn Nho Nhượng (Tiếng Nói Giữa Hư Vô, 1972), Phan Nhự Thức (Đốt Tuổi 1969), Nguyễn Bắc Sơn (Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi 1972), Dynh Hoàng Sa (Vùng Trú Ẩn Hoang Đường 1968), Trịnh Bửu Hoài (Thơ Tình 1974), Nguyễn Thanh Trịnh (Ví Dụ Ta Yêu Nhau 1974), Hoàng Khởi Phong (thêm Phục Hồi Quyền Chức Làm Người 1972), Trần Vàng Sao (Khoảng Tối Sau Lưng 1965), Đông Trình (Khi Mùa Mưa Bắt Đầu 1967, Lót Ổ Cho Đại Bác 1968, Rừng Dậy Men Mùa 1972), Lê Văn Thiện (Một Cách Buồn Phiền 1969, Sao Không Như Ngày Xưa 1971), Mang Viên Long (Trên Đỉnh Sa Mù, Mùa Thu Trống Trải, Có Những Mùa Trăng 1972, Như Giọt Sương, Nói Với Người Yêu, Một Đời Mơ Ước), Tô Đình Sự (Vùng Trú Ngụ 1967), Hoàng Ngọc Tuấn (hàng chục cuốn tiểu thuyết trước 1975, phần lớn cho thanh thiếu niên), Trần Hữu Lục (Cách Một Giòng Sông 1969), Cung Tích Biền (Ai Tỉnh Ai Điên 1968, Hòa Bình Nàng Tình Rỗng, 1968, Nỗi Buồn Thắp Sáng 1969, v.v..), …

Mường Mán năm 1974 ra hai cuốn truyện dài Lá Tương Tư và Một Chút Mưa Thơm. Vũ Hữu Định (1942-1981) lúc bấy giờ chưa có tác phẩm xuất bản, chỉ sau khi ông mất bạn hữu mới in được Còn Một Chút Gì Để Nhớ. Cao Vị Khanh ra đến hải ngoại mới in tác phẩm đầu tay Lệ Từ Nét Ngang (2001) cũng như Nguyễn Văn Ngọc in tập thơ đầu Chuyện Kể (2002) và Từ Thế Mộng sau Lời Ca Cỏ Non, sẽ được Thư Quán Bản Thảo xuất bản Lẽo Đẽo Một Phương Quỳ (2002).

Họ tập trung nhiều nhất ở miền Trung nhưng cũng có ở miền Tây cũng như Đông Nam phần. Vùng Quảng Đà tụ được nhiều nhất, như Luân Hoán, Hoàng Lộc, Đông Trình, Thái Tú Hạp, trong đó Nguyễn Nho Sa Mạc mệnh yểu, mất khi mới 20 tuổi, thơ như oan trái vận vào cuộc đời:

Bằng đôi tay ôm kín nỗi buồn
Ta đi trong trời đất hoàng hôn
Mà nghe sữa mẹ chan hòa chảy
Máu ở buồn tim cũng loạn cuồng
Ôi nửa cuộc đời ta đảo điên
Đêm nằm ru giấc ngủ cô miên
Hai mươi tuổi trong hồ suy tưởng
Ngửa mặt nhìn trời đi ngã nghiêng (Sinh Nhật)

Huế có Bửu Ý, Trần Vàng Sao, Tiêu Dao, Hồ Minh Dũng, Tần Hoài Dạ Vũ, … Qui Nhơn có Nguyễn Mộng Giác, Lương Trọng Minh. Vùng Cao nguyên có Vũ Hữu Định, Nguyễn Minh Nữu, Phan Ni Tấn, … Phan Rang có thời tụ tập Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, … có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên (nhóm Ý Thức còn có cả Võ Tấn Khanh, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận). Nhóm Khai Phá ở Châu Đốc có Trịnh Bữu Hoài, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyễn Thành Xuân, Lưu Nhữ Thụy, … Cần Thơ có nhóm Sông Việt gồm Chu Tấn, Trần Kiên Thảo, … và văn đoàn Về Nguồn (Kiều Diễm Phương, Lê Trúc Khanh, Lê Hà Uyên, …). Ở Long Xuyên và Vĩnh Long có Cao Vị Khanh, Cao Huy Khanh, Nguyễn Cát Đông, … Cao Huy Khanh là cây viết phê bình văn học sáng giá đầu tiên của miển Nam xử dụng những phương pháp hiện đại, tác giả một loạt bài văn học sử trên tạp chí Thời Tập (Bài đầu với “20 Năm Tiểu Thuyết Việt Nam Từ 1954 đến 1973”, Thời Tập số 1, 14-12-1973), và nhiều bài về thi ca và các tác giả miền Nam: Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Sơn Nam, …

Tâm sự của một nhân vật của Nguyễn Phương Đông trong Căn Nhà viết thời 1972 do cơ sở Sóng Văn xuất bản ở hải ngoại năm 1997 với bút hiệu mới Nguyễn Sao Mai: “Đối với đời sống tôi không còn có nhiệt tâm, mà những phỉnh phờ thì càng lúc càng gia tăng đến một mức độ phức tạp. Tôi không nói tới chiến tranh. Cuộc chiến này cũng như một nhát dao chém trên vết thương đã quá sức lở lói. Chiến tranh đã dai dẳng đến một mức độ khiến người ta không còn nghĩ đến sự ngừng dứt” (tr. 59). Nhà thơ Cao Thoại Châu mơ một ngày hòa bình:

Hát với ta đi bầy chim mùa hạ
Từ hải đảo về đậu bên cửa sổ
Làm thức bình minh líu lo líu lo
Vòng mắt nhung tròn xanh biếc
Hát đi nghe bầy chim đáng yêu
Hát đi nghe chân trời mỏi cánh
Những hoàng hôn mây đuổi theo chim …
(Trong Cõi Trời Mơ Ước, Nghệ Thuật, 25-4-1966).

Nói đến địa phương để tạm phân biệt, tìm hiểu, nhưng khó xếp vì các nhà văn thơ trẻ ngoại trừ “học sinh/sinh viên” Nguyễn Tât Nhiên, phần lớn thuộc hai giới quân đội và giáo chức – cũng như các nhà văn lớp trước, nên thường di chuyển công vụ hoặc theo bước quân hành, đó là trường hợp của Luân Hoán, Y Uyên, Doãn Dân, Hoàng Khởi Phong, … bên lính tráng và Trần Hữu Lục, Cao Vị Khanh, Nguyễn Trung Hối, v.v. bên “gõ đầu trẻ”. Nói chung, các nhà văn thơ đều xuất hiện trên các báo và tạp chí ở thủ đô, và xuất bản tác phẩm cũng ở thủ đô ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt rất là ngoại lệ của một vài các nhóm kể trên. Y Uyên chết trận ở Phan Thiết khi trong tay đã có sự vụ lệnh đổi về Sài Gòn, Doãn Dân mất trong hầm chỉ huy ở Quảng Trị là hai trong số những cây bút có nhiều triển vọng. Y Uyên tác giả các tập truyện Tượng Đá Sườn Non 1966, Quê Nhà 1967 và truyện dài Ngựa Tía 1967, … Doãn Dân tác giả hai tập truyện dài Chỗ Của Huệ 1968 và Tiếng Gọi Thầm 1972, nhưng văn tài của ông là ở truyện ngắn đăng trên Chỉ Đạo, Tân Phong và Bách Khoa chưa được xuất bản.

Sau 1975, những Mường Mán, Trần Vàng Sao, Trần Duy Phiên, Đông Trình, Ngụy Ngữ, Cung Tích Biền, … theo phe chiến thắng, lần lượt trước sau rơi vào thất vọng ê chề, có người buông bút, có người trở về làm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Thế Nguyên bị bỏ rơi, chết trong nghèo đói! Tiêu Dao Bảo Cự trở nên đối lập.

Sau thời Cởi trói và nhất là những năm gần đây, một số đã sinh hoạt văn nghệ trở lại: Cao Thoại Châu xuất bản Bản Thảo Một Đời 1991, Nguyễn Bắc Sơn ra Đời Như Một Nhà Thơ Đông Phương 1995, Ngô Nguyên Nghiễm cũng vậy, Huy Tưởng xuất bản nhiều tập thơ (Hỏi Đường Cùng Mây Trắng, v.v.) và đưa ra cách tân thơ lục bát thành một loại hài cú 14 âm tiết, Trần hữu Lục thì biên soạn nhiều sách về Huế, Nguyễn Tôn Nhan soạn Từ Điển Văn Học Cổ Điển Trung Quốc và Từ Điển Thành  Ngữ Trung Quốc 1999, v.v. Riêng Trần Duy Phiên và Cung Tích Biền được thân hữu ở hải ngoại in cho hai tập truyện Thằng Bắt Quỷ (1993) và Kiến Và Người, Trần Vàng Sao cũng được bạn ưu ái xuất bản tập Bài Thơ Của Một Người Yêu Nước Mình (Tân Thư, 1994). Thị Trấn Khô của Ngy Hữu được xuất bản sau khi mất.

Về phần những người đi tù cải tạo sống sót trở về, kẻ thì lây lất trong cái nghèo đói chung của miền Nam, trí thức văn nghệ sĩ dĩ nhiên cái khốn cùng nó cũng thê thảm hơn! Gượng dậy gặp gỡ bạn hữu thì kẻ còn người mất, kẻ trong người ngoài nước; nói chung tang thương đã lắm và chưa hẳn đã hết!

NGUYỄN VY KHANH
(Trích “Văn Học Việt Nam Thế Kỷ 20, một số hiện tượng và thể loại”
Nguyễn Vy Khanh, Đại Nam xb tháng 1-2004, trg. 63)
           
Nguồn: http://luanhoan.net/






ĐÔI DÒNG VỀ NGUYỄN VY KHANH

Sinh năm 1951 tại Quảng Bình.
Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Việt Hán Sài Gòn 1974,
Cử nhân giáo-khoa 1973 và Cao học Triết Tây 1975,
Master of Library Sciences, Montréal, Canada 1978.

TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:

Khung Cửa (Thơ, Tác giả xb, Sài Gòn, 1972)
Ngô Đình Diệm Và Nổ Lực Hoà Bình Dang Dở (dịch, Xuân Thu, tái bản 1989)
Lỗ Tấn Và Truyện Xưa Viết Lại (Xuân Thu, 1997)
Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh 1957-1997 (Đại Nam, 1997; tái bản 2000)
Văn Học Và Thời Gian (Văn Nghệ, 2000)
Văn Học Việt Nam Thế Kỷ 20, Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại (Đại Nam 2004)

Nguồn: http://vanchuongviet.org/