Tranh Nguyễn Trọng Khôi
Kể từ sau Đời Như Một Khúc Nhạc Buồn (1972), Tạ
Ơn Những Giọt Sương (1974) là sự gián cách đằng đẵng hơn bốn mươi năm.
Khoảng thời gian quá dài cho sự chứng nghiệm của thơ trước những
thử thách mà cuộc đời không ngừng bày ra trước mắt Hoàng và thế hệ của Hoàng.
Nhưng, trước những đổi dời và tan biến của bao thành tựu, bốn mươi năm để
cho Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương ra đời (1) rốt cuộc, chỉ là điều
để thi nhân có thể nói lên sự hào phóng dành cho giấc mơ và con đường theo
đuổi.
Trước đây người ta biết Hoàng như người có một cõi riêng để
cất lời tình tự bằng giọng riêng, đơn sơ, mộc mạc mà dịu dàng, tha thiết.
Cõi riêng ấy có dòng sông tượng hình cho quãng đời truân chuyên, khắc khoải mà
thực lòng có lúc còn hoài nghi về một bến dừng khó định. " Tôi vẫn
để hồn mình / xanh như dòng nước kia / tôi vẫn để lòng mình / trôi bồng bềnh
theo những đám rong rêu..." (2) Từ đó, gắn mình và soi bóng tâm
hồn nơi dòng sông, Hoàng đã gửi vào chốn luân lưu định mệnh của riêng mình dù
là khi phó thác cho tình yêu. " Có trong ta những dòng sông trắng
/ chảy êm đềm như tóc em xưa." (3)
Thực thế, ngay cả khi dành lời tình tự thiết tha nhất cho
người, dòng sông và vật phụ tùy là chiếc cầu cũng được chọn làm kẻ chứng. "
Anh dõi mắt mà trông niềm ly biệt / như lòng sông khô nước chân cầu." (4)
Tự ban đầu, Hoàng, như thể tự nguyện ràng buộc những mối dây
tình cảm xuất phát từ nhiều ngả. Với người thân, bạn hữu, người tình. Nói tự
nguyện vì Hoàng không viện dẫn đến định mệnh hay tác động khách quan khi đứng
trước nghịch cảnh hay ngang trái. " Dẫu lòng ta bạc hay ngươi bạc
/ cũng cầm bằng như gió mây qua." (5)
Hơn bốn mươi sau năm sau, Hoàng mới có dịp xác tín lại sự
lựa chọn cõi riêng mình và Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương, ở một khía
cạnh, cao rao lòng thiết thạch của Hoàng với những tình cảm đó.
Không hẳn từ đây, Hoàng mới khám phá ra hương của đất hay
lưu lượng của dòng sông mà người ký thác năm xưa. Nhưng, chỉ ở thời điểm vững
vàng này, người mới có dịp tấn phong những giá trị tình cảm được đất hay
quê nhà nuôi dưỡng và quan trắc mực nước nơi dòng sông mà tâm hồn được gửi gắm.
Quê nhà năm xưa nhiều lắm chỉ được hình dung như nơi xuất
phát một hoàn cảnh không kém khắc nghiệt trong đó mái nhà ấm cúng cũng không
ngăn được ý thức về những ngày trước mặt. Đất mà Hoàng chia tay vẫn nguyên vẹn
trước sau chỉ là khởi điểm của mong nhớ, là chốn mong để quay về, nghĩa là
trong một ý nghĩa, là một cõi ly gián với thực tại. Như thế, quê nhà tồn tại
nơi Hoàng chính là sự bền vững của những mối dây tâm cảm và tình cảm mà người
gắn bó được trong đời. Trong ý nghĩa đó, đất đã dậy hương khi
Hoàng nắm được mối dây này, người đã đến gần hơn cả ý nghĩa của
cuộc sống. " Đứng bên bờ vực tử sinh / vẫn nghe em hát bản tình ca
xưa." (6)
Thời gian chẳng hề làm phai nhạt lòng trắc ẩn của thi nhân
với tình, chính vì ngay trong tiềm thức, thực tại chỉ là sự lặp lại việc đã
qua, không phải là khai quật cái đã chôn vùi. Tình yêu - cũng như đất mà nó bắt
nguồn - vốn đứng ngoài định luật tử sinh nên mỗi thử thách là thêm lần
bền vững. Đất lớn dậy nhờ mồ hôi của người khai phá cùng với tình yêu cũng lớn
lên từ giọt lệ và nụ cười. Hoàng đã có được giá trị này vì với quê nhà, người
chẳng phải là kẻ vong tình. Năm xưa, vào "thời của những người đánh mất
trái tim "(7) khi nhận là người thất cước với nơi chôn nhau,
"sống nửa đời chẳng có một quê nhà "(8) lời thú nhận của
Hoàng còn mạnh mẽ hơn là ý thức được khai mở.
Ngày nay, tại định sở mới, khoảng cách địa lý không làm dài
thêm nỗi nhớ về một quê nhà vốn luôn luôn là nơi ngóng đợi nhưng dường như làm
bền chắc thêm về những tình cảm được chắt chiu bấy lâu. Tình khúc được lặp lại,
xôn xao lòng như buổi đầu mơ ước mà không chịu phép thăng hoa. " Hát
cùng em bài tình ca thuở ấy / tìm lại dấu chân mình trên những lối đi xưa
" (9) Hoàng nghĩ đến sự có mặt vĩnh cửu của tình. Người đã không
tham lam khi người đã vẹn tình với nền tảng của mối dây tình cảm ràng
buộc. " Chia cùng tôi một chút tình / của ngàn năm trước và nghìn
năm sau." (10)
Quả thực, trong tiếng thơ mới nhất, Hoàng chỉ cất cao lời
xác tín về những giá trị hằng gìn giữ bấy lâu, tình với người thân, với bằng
hữu, với người yêu dấu và với quê nhà biền biệt. Người không giãi bày thêm vì
lòng thiết thạch đã khiến khởi điểm trở thành điểm đến. " Về đâu
chẳng biết về đâu / thôi thì về lại buổi đầu gặp em." (11)
Đất dậy hương khi niềm xác tín được thành lập. Tình vẫn mới
như thuở được khai sinh vì thực chất nó không có tuổi. " Và
cứ hồn nhiên em nhé / cùng tôi đi giữa cuộc đời." (12)
Và trong lời khích lệ người bạn đồng hành trên đường đời,
Hoàng vẫn muốn thiên nhiên lẫn đất trời nhớ đến cội nguồn gắn bó. "
Mơ cùng tôi nhé Cúc Hoa / giấc mơ Đà lạt thời chưa biết buồn / vẫn là tôi, vẫn
là em / vẫn khu rừng lạnh tiếng chim gọi đàn / vẫn là mây trắng ngàn
năm.". (13)
Trong hướng xác lập niềm tin nêu trên, tình của người với
quê nhà và với song thân hòa quyện. Hình ảnh của chiếc nôi tinh thần bàng bạc
trong lòng khiến cho dưới mắt người, quê nhà cũng có bàn tay và tâm hồn từ ái
như song thân. Nỗi nhọc nhằn của họ đã nuôi nấng người và cả tương lai mường
tượng được. " Mùi hương của đất làm con nhớ / những giọt mồ hôi những
nhọc nhằn / cha đã vì con mà nhỏ xuống / cho giấc mơ đời con thêm xanh."
(14) Bằng sự kết tập đầy ý nghĩa giữa tình đất với tình người như trên, người
làm thơ đã đặt vào vòng tay mẹ cha khả năng bảo bọc vô lượng của tạo vật. Hoàng
đứng vững trong niềm tin này thay vì diễn dịch một tình cảm phổ quát.
Tình cảm ấy được đặt ở vị trí đóng-mở tập thơ (15) vì tính chất đặc biệt
của nó. Nó có tính chất khai nguyên, phát sinh trước nhất và khai mở các tình
cảm khác. Nó không có giới hạn và không thể đem so sánh với phạm trù khác.
" Khi về thăm lại cố hương / thấy quê nhà nghĩ càng thương quê nhà / hắt
hiu một bóng mẹ già / một ngôi mộ cỏ xanh và khổ đau." (16)
Có thể nghĩ người làm thơ như Hoàng đã may mắn sau khi thời
gian và hoàn cảnh đã hoàn tất cuộc trắc nghiệm mà kết quả chỉ làm vững chắc
thêm những giá trị được tuyên nhận ban đầu. Lòng người thanh thản hơn xưa và
nay điều còn khắc khoải lại chính là lúc ngoái nhìn về nỗi lênh đênh của năm
tháng cũ mà có lúc quê nhà là chân diện, là nguyên ủy của nỗi lênh
đênh. " Giọt sương đọng suốt mười lăm năm / long lanh từ thuở xa
quê mình." (17)
Trần Mạnh Toàn
California, June 16, 2015
(1) Thi phẩm thứ tư của Phạm Cao Hoàng do Thư ấn quán ấn
hành vào tháng 5.2015 sau Mây Khói Quê Nhà, một tuyển tập thơ chắt
lọc từ 2 tập thơ đầu và phụ thêm một số bài viết sau năm 1975 ( Thư ấn quán,
NewJersey, 2010.)
(2) Bên Dòng Sông Tuổi Thơ, in lại trong Mây Khói
Quê Nhà, tr.38)
(3) Gã Hàn Sĩ Ấy Lại Ra Đi, in lại trong Mây Khói
Quê Nhà, tr. 40. Sơ bản in trong Bách Khoa, giai phẩm,
19.9.1973, tr. 75.
(4) Nhũng Nhịp Cầu Đen Buồn Bã, in lại trong Mây
Khói Quê Nhà, tr. 31.
(5) Hành Phương Đông, in lại trong Mây Khói Quê Nhà,
tr. 20.
(6) Dù Sao Vẫn Cám Ơn Đời, Đất Còn Thơm Mãi
Mùi Hương, tr. 38.
(7) (8) Hành Phương Đông, in lại trong Mây Khói Quê
Nhà, tr. 21, 25.
(9) Đi Cùng Em Giữa Đà Lạt Sương Mù, Đất Còn
Thơm Mãi Mùi Hương, tr. 48.
(10) (11)Bây Giờ, Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương,
tr. 41, tr.42.
(12) Đóa Hoa Hồng Trong Tuyết, Đất Còn Thơm Mãi Mùi
Hương, tr. 86.
(13) Ngày Tôi Trở Lại Miền Đông, Đất Còn Thơm
Mãi Mùi Hương, tr. 60.
(14) Mây Khói Quê Nhà, Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương,
tr. 22.
(15) Bài đề cập mẫu thân ( Sau Chiến Tranh Trở Lại
Tuy-hòa) là bài thơ đầu và bài Cha Tôi là bài cuối tập.
(16) Sau Chiến Tranh Trở Lại Tuy Hòa, Đất Còn Thơm
Mãi Mùi Hương, tr. 14.
(17) Scibilia, Ngày Cuối Thu, Đất Còn Thơm Mãi Mùi
Hương, tr. 78.