TRẦN HOÀI THƯ
Nguyễn Bắc Sơn
và nỗi kiêu mạn của tuổi trẻ thời chiến
Source: http://www.pd4pic.com
Có lẽ so với Cao Bá Quát, cái cao ngạo của Nguyễn Đức Sơn còn trội
hơn một bậc. Xin đọc lá thư gởi vợ viết từ nhà lao Bảo Lộc ngày 25 tháng
8 năm 1972, được dùng làm tựa trong thi phẩm Du Sỹ Ca, mới thấy cái mức
độ cao ngạo này:
“Anh tin rằng tất cả những đứa làm thơ từ đây trở về sau đã
vang danh thi sỹ từ bao kiếp trước nếu không đọc thuộc lòng ít nhiều bài Du Sỹ
Ca này đều chẳng phải là thi sỹ nữa… (Du Sỹ Ca – An Tiêm xuất bản).
Nguyễn Đức Sơn
dinhcuong
Nhưng
có một người thơ khác, cũng kiêu ngạo không kém.
Người
ấy là Nguyễn Bắc Sơn. Trong một lá thư gởi đi từ Phan Thiết đăng trên tạp chí
văn nghệ "Sóng" do những người viết trẻ chủ trương, và chỉ sống được
vài số, ông xem những người đàn anh mà ông cho là những lý thuyết gia
khuyến hành ngây thơ, những kẻ chưa giác ngộ về mục đích đời sống.
Ông
viết:
”
Khi anh chưa biết ”Sống để làm gì”, anh không thể khuyên bảo người khác nên sống
như thế này hay nên sống như thế kia, nên tranh đấu cho lý tưởng này hay tranh
đấu cho lý tưởng kia.
Các
bậc đàn anh tôi kể tên (Kim Định, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn) giống như những
kẻ chỉ đường sốt sắng trong câu chuyện sau đây:
Có
một người khách lạ đi ngang qua một thị trấn. Trong thị trấn ấy có ba người sốt
sắng. Ba anh chàng này chặn ông khách lại. Anh chàng thứ nhất bảo ông khách :
“Anh nên đi đường này”, trong khi anh chàng thứ hai bảo: ” Không, đi đường kia
mới đúng”. Nhưng anh chàng thứ ba lại bảo con đường anh ta chỉ cho ông khách mới
thật là “con đường đúng nhất”. Ba người thi nhau vẽ bản đồ tỉ mỉ trình bày con
đường mình đề nghị cho đến khi ông khách chậm rãi hỏi: ” Các anh có biết tôi định
đi đến đâu không mà các anh sốt sắng chỉ đường thế ?”
Và
chắc chắn cũng có rất nhiều người khác nữa như Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Bắc Sơn.
Không phải họ theo cái mốt thời thượng như buồn nôn, nổi lọan, hay tuổi trẻ phản
kháng… Đừng buộc tội họ như vậy, trong khi tuổi trẻ của họ như thế này:
…Bức
thư đến đây tưởng có thể chấm dứt được nhưng tư nhiên tôi thấy hứng thú mời anh
rời bỏ thế giới tư tưởng để đi vào cõi thế giới thi ca. Vì anh cũng là một kẻ
làm thơ. Tôi muốn đọc những bài thơ tôi viết sau những giờ thiền định. Tôi cũng
sẽ kể cho anh nghe một vài quãng đời của một người tuổi trẻ tại thành phố Phan
Thiết trong đó y đã say mê tình yêu, say mê bạo động, say mê thi ca, say mê triết
học, say mê câu cá. Y đã từng mang theo chiếc lưởi lam leo lên ngọn đồi nghĩa địa
để cắt đứt mạch máu vì triết lý. Y đã từng đọc sách cả tháng không bước
ra khỏi nhà. Y đã từng bán ”sôn” tất cả sách quí để say sưa cùng bằng hữu.
Y đã đi làm thông dịch viên Lực Lượng Đặc Biệt để nhìn tận mắt chiến tranh Việt
Nam. Y đã thiền định. Y đã ăn gạo lức muối mè…
(Thư
Nguyễn Bắc Sơn gởi Nhất Hạnh, tạp chí Sóng, năm 1972, trang 38-39)
Nguyễn Bắc Sơn
dinhcuong
Xét
cho cùng, chúng ta cũng nên thông cảm ở nỗi bất mãn của họ. Khi mà chiến tranh
cận kề, khi mà miệng lưỡi họ câm, khi “phần chết thì dành cho thanh niên còn phần
sống thì dành cho những ngài hàn lâm áo thụng”, khi mà văn học chỉ được
nhắc nhở ở Sài Gòn, qua những chiếu trên chíêu dưới,thì dĩ nhiên, tiếng kêu cần
phải thoát ra cổ họng, phải tuôn trên giấy, cho dù tiếng kêu của loài ễnh ương
đi nữa.
Có
thể những nỗi kiêu mạn này gây dị ứng cho một số người. Tuy nhiên, chúng
phản ánh những suy nghĩ thầm kín nhất của một thế hệ bị thiệt thòi về mọi
phương diện trong chiến tranh và ngay cả sau khi hết chiến tranh. Chúng
cũng phản ánh một nền văn học tự do ” yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo
là ghét…” trái ngược với văn học miền Bắc, giả dối, tuyên truyền, một
chiều, dựa và đơn đặt hàng, triệt tiêu cảm xúc.
Trần
Hoài Thư
August
7, 2015