t ù
y b ú t
nguyễn xuân thiệp
T R À C A
TRÀ TRÊN NHỮNG TRANG CỔ THƯ
Bình Trà. Tranh Casey Shannon
Đầu
xuân, một bạn văn ở Los Angeles gởi cho gói trà. Trà mang nhãn hiệu Tuyết Sơn,
mở ra thơm ngát. Lúc bấy giơ tuyết phủ trắng thành Oklahoma, nơi tôi ở. Chỉ
trong một đêm, phong cảnh đã đổi khác, như trong truyện thần tiên của Hans
Christian Andersen. Buổi sáng mở cửa nhìn ra vườn, ngạc nhiên đến sững sờ, vừa
cảm động vừa hân hoan. Tuyết, lần đầu tiên nhìn thấy trong đời. Vội vàng vào
bếp đun ấm nước. Tiếng nước reo như tiếng gió qua lũng thông vàng. Hương trà
bốc lên trong tĩnh lặng sớm mai khi tuyết đã trắng mái nhà, cây cối, bờ rào và
những con đường hiu quạnh. Một vài bóng quạ chập chờn, điểm những chấm đen
thẫm, như trong tranh mộc bản. Nâng chung trà lên, nóng ấm trong lòng bàn tay.
Uống vào một ngụm, nhìn ra tuyết bay, thấy mình là người hạnh phúc trên đời.
Thì ra, hạnh phúc vẫn có đấy, dẫu hiếm hoi và nhỏ bé so với những nỗi khổ vô
cùng tận của kiếp người. Vậy, bạn bè ơi, hãy tận hưởng những hạnh phúc phù du
ấy đi, để hồn tan trong hương trà buổi sớm mai, nghĩ đến những điều tốt đẹp. Và
nghĩ một chút về trà.
Nói
về trà, lúc này, ở đây, e có hơi lạc
điệu chăng? Giữa một xã hội gia tốc, người ta uống toàn coca cola và những thứ
nước hóa học pha chế, hoặc cà phê vừa lạt vừa chua, trà hầu như không có chỗ
đứng nào cả. Nhưng ở đâu đó, trong gia đình những người Việt ly hương, và gia
đình người Hoa, người Nhật, và cả một số gia đình Mỹ, trà vẫn có mặt, như nó đã
ở cùng nhân loại hàng ngàn năm qua.
TRÀ TRÊN NHỮNG TRANG CỔ THƯ
Trà
xuất hiện rất sớm trong lịch sử, khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Gốc gác của
nó, theo như sử sách ghi lại, đâu ở vùng Hoa Nam. Nhưng mới đây, ông Nguyễn Mạnh
gặp một vị lão nhân mở quán trà ở gần Hàn San Tự, được vị này cho biết theo
kinh sách thì “trà không xuất xứ ở Trung Hoa, vì không tìm thấy cây trà thiên
nhiên hay cây trà hoang ở châu thổ sông Hồng và sông Dương Tử. Quê hương của
cây trà ở tận miền Nam. Mãi đến đời nhà Tùy, trà mới từ Đại Lý (Nam Chiếu xưa)
và Việt Nam (Nam Việt xưa) nhập vào Trung Quốc. Đến đất văn hóa này, trà được
chăm sóc tinh vi và rồi qua nhiều năm tháng, trà được đưa lên hàng nghệ thuật”.
Một
nhà văn gần đây cũng viết: “Xứ Việt đã biết đến trà từ thời Đông Hán, nhưng trà
đạo Việt thành hình với đời nhà Đường, theo các nhà sư Phật giáo vào Giao Châu.
Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng
“trà là loài cây quý ở phương Nam”. Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên
những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc thuộc, hiển bày tột độ thời Phất
giáo Lý, Trần. Đạo trà Việt cổ là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan; không cửa
vào, không lối ra. Về sau các văn nhân hiền giả thường mượn đó làm thú tiêu
dao.
Thấy
trúc lay mới biết được gió, hồn và bóng trà đạo Việt lồng lộng cái Đẹp của hình
và sắc trong trà gốm Việt. Những bát trà ấy về sau truyền tâm ấn về biển Bắc
xa, chuyển sinh lại trong nghi lễ trà đạo Nhật.
Và
trong Trà Kinh của Lục Vũ đời Đường
cũng có ghi: “Người phương Nam có cây qua lô giống như lá trà non mà nhụy đắng,
giã nát ra pha trà mà uống thì suốt đêm không ngủ. Ở Giao Châu và Quảng Châu
người ta rất quí thứ này, hễ có khách đến nhà thì trước hết bày ra đãi khách.”
Vậy,
có thể xem cây trà xuất xứ từ phương Nam nắng ắm của chúng ta. Nhưng thôi, cũng
đừng nên tìm đến ngọn nguồn của nó làm gì, chén trà trong tay sớm mai sẽ nguội
mất. Hãy hớp thêm một ngụm trà nóng nữa rồi thử tưởng tượng xem ở cái thời xa
xưa cách đây hàng ngàn năm, người đầu tiên tìm ra ngọn lá trà bên con đường mòn
lên non tuyết phủ hay xuống lũng sâu nắng rám da. Vò nát chiếc lá trong tay,
thoảng mùi hương ngái, nếm thử thấy vị chát đắng quyện trên đầu lưỡi rồi tan
dần, để lại dư vị ngọt ở cuống họng. Có chút ngây ngất, lâng lâng dễ chịu. Chà,
được đây, thử hái về mấy nắm, đem phơi nấu uống. Từ đó, trà có mặt trong đời
sống con người, thật nồng ấm và thân thiết. Con người đầu tiên tìm ra lá trà ấy
đâu biết rằng y sẽ mở ra cả một nền văn minh và đạo học sau này.
Nhiều
thế kỷ trôi qua, trà đã trở thành món uống ưa thích của dân chúng vùng thung
lũng sông Dương Tử. Dần dần, cùng với Đạo Giáo và Phật Giáo nở rộ, ảnh hưởng
trà lan rộng sang tới Nhật Bản, Việt Nam. Nước Nhật, do theo sát nền văn minh
Trung Hoa, nên đã biết tới trà từ rất sớm. Theo Okakura Kakuzo thuật lại trong
cuốn Trà Đạo thì ở thế kỷ thứ 8, các vị vua đã đem trà
thết các đoàn tăng lữ trong cung Nại Lương. Sang thế kỷ thứ 9 và những thế kỷ
tiếp theo, trà mọc lên khắp nơi quanh vùng kinh đô Kyoto. Theo thời gian, trà
nhập vào thi ca và trở thành một thứ đạo: Trà Đạo. Trà đi vào Việt Nam chắc
cũng sớm như thế. Thi ca đời Lý của các vị thiền sư đã có nói tới trà. Đây, ta
hãy đọc vài câu:
Đưa người xa nghìn dặm
Cười tặng một bình trà...
Áo rách đùm mây đun cháo sớm
Bình xưa đựng nguyệt nấu trà khuya...
Người
Âu Châu biết đến trà khá muộn, đâu vào thế kỷ thứ 16. Đó là nhờ các đoàn thám
hiểm và thương nhân mang về. Hoà Lan, Pháp, Nga lần đầu tiên được thưởng thức
chất nước vàng thơm ngát của trà là vào
thế kỷ 17. Nước Anh cũng vậy, họ thưởng thức trà và ca ngợi nó hết lời. Lúc
đầu, chỉ có giới quý tộc mới được uống
trà vì giá trà rất mắc. Lâu dần, trà xâm nhập vào đời sống quần chúng, và sang
đến thế kỷ 18, trà được bán trong các quán cà phê ở Luân Đôn. Tiệc trà buổi xế
trưa, gọi là afternoon tea, đã trở
thành một nghi thức không thể thiếu trong đời sống xã hội nước Anh.
Nhưng
này, bạn, ta châm thêm bình trà nữa, và trong khi chờ đợi, hãy nghe đoạn văn
sau đây: “Trong tiếng khay chén va chạm nhau lách cách, trong những tiếng áo
quần sột soạt dịu dàng của các bà các cô khoản đãi khách, trong những câu
chuyện thông thường về kem về đường và bánh ngọt, hương trà tỏa lên thơm ngát mùi vị Đông Phương.” Bạn đồng ý
không - trà từ trong bản chất không vô duyên như các thứ soft drink, không hợm
mình như rượu, không đậm chất đam mê như cà phê, trái lại trà lắng đọng và trầm
tư, tỏa ngát thơ, nên được các triết gia, văn gia Anh nồng nhiệt ca ngợi. Trà
đến Mỹ là muộn nhất, qua hải cảng Boston, và tìm được một vùng đất mới.
Trở
lại nơi từ đó trà được đưa vào nước Mỹ là đất Trung Hoa. Hãy nghe Okakuro
Kakuzo viết trong Trà Đạo: “Các môn đồ Đạo gia coi trà là một vị trọng yếu
trong môn thuốc trường sinh bất lão, còn các tăng đồ Phật Giáo thì thường dùng
trà chống lại cơn buồn ngủ trong những giờ ngồi trầm tư mặc tưởng dài đằng
đẵng.”
Sách
cũng nói rằng Đức Bồ Đề Đạt Ma cũng dâng trà cúng Phật mỗi đêm trong giờ ngồi
Thiền:
Ngồi lại đây quanh nồi trà thơm
Như người xưa ngồi trong động đá
Đức Đạt Ma cùng với chúng tăng
Dâng trà hoa trước giờ Thiền tọa.
(thơ
NXT)
Các
thi gia đều nói đến trà, Trà Thi nở
rộ trong đời Đường. Lục Vũ (đã nhắc ở trên), khoảng thế kỷ thứ 8, viết cả một
cuốn Trà Kinh. Hãy nghe ông tả một lá trà “những nếp nhăn nheo như chiếc ủng da
của những kỵ binh Thát Đát, quăn như cái yếm của bò mộng, tỏa ra như hơi sương
từ khe suối bốc lên, lấp lánh như mặt hồ vờn gió Tây, và sau hết, vừa ẩm vừa
mềm như thứ đất tốt mưa vừa tưới dội.” Này bạn, nâng chung trà lên đi, vừa hớp
vài ngụm vừa nghe Lỗ Đồng, một thi nhân đời Đường, diễn tả hương vị trà: ”Chén
thứ nhất, dấp ướt môi và cổ họng; chén thứ hai, phá tan nỗi cô quạnh của ta;
chén thứ ba thấm vào trong ruột khô khan của ta và kiếm ra được năm ngàn cuốn
biểu ý văn tự kỳ dị; chén thứ tư làm cho ta giâm giấp mồ hôi, bao nhiêu những
điều tà ác ở trên đời đều tiết ra khỏi lỗ chân lông ta. Uống đến chén thứ năm,
lòng thấy lâng lâng thanh tịnh; chén thứ sáu chiêu vời ta tới cõi bất tử. Chén
thứ bảy, a, nhưng ta không thể nhấp hơn được nữa! Ta chỉ thấy luồng gió lạnh
thổi phồng cánh tay áo ta lên thôi. Bồng Lai Sơn ở đâu? Thôi hãy để cho ta cưỡi
ngọn gió mát này bay đi đến đó cho xong.”
Bạn
ơi, Lỗ Đồng tả như thế nghe có thi vị không? Chúng ta đã uống tới chén thứ mấy
rồi nhỉ? Chẳng nhớ nữa. Nhưng bạn cảm thấy trong người mình, hồn mình như thế
nào? Tôi thì như rời khỏi mặt đất và thấy mọi sự như qua một màn sương hư ảo.
Cuộc đời này coi vậy mà nhẹ không. Nhưng ta tiếp nối câu chuyện nhé.
Mới
vừa đây, tôi được đọc trên tạp chí Thế Kỷ
21 một bài văn rất thú của Nguyễn Mạnh nói về trà. Đây tất nhiên không phải là
cổ thư rồi nhưng đượm rất nhiều hương xưa. Để tôi thuật sơ bạn nghe nhé để chén
trà ta uống càng thêm nồng đượm. Đây là buổi uống trà tại một trà gia ở Tô
Châu, Trung Quốc. Tác giả Nguyễn Mạnh cùng vợ đến Tô Châu mùa xuân 1995. Nhân
dịp rỗi rảnh, ông lên thăm chùa Hàn San và xem văn bia khắc bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường. Dịp này, cô hướng
dẫn viên du lịch giới thiệu với tác giả tiệm trà của một người Việt Nam tên
Hoàng. Đây là đường đi tới quán trà, theo như lời tác giả thuật lại, đọc bạn
nghe chơi: “Hôm nay đổi trời, không khí lạnh căm, ngoài đường lất phất mưa xuân
cuối mùa. Suốt dọc đường, có những ruộng hoa cúc vàng mênh mông, bát ngát. Hỏi
ra thì biết nơi đây trồng hoa để làm trà cúc và rượu hoàng hoa. Nhìn hoa, tôi
chợt nhớ tới câu đối “ buổi sớm lên núi Sáng thấy cụm hoa vàng nhớ cụ Hoàng
Hoa” năm xưa đọc trong trường thiên Khu
Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ, mà muốn se lòng.*
Văn
học Việt Nam không thiếu gì những trang, những đoạn, những câu nói về trà, ca
tụng trà. Ở trên, tôi đã trích dẫn mấy câu thơ của các thiền sư đời Lý. Nguyễn
Trãi khi về lại Côn Sơn thường lên lấy nước đầu khe núi về nấu trà. Mừng được
sống sót sau chiến tranh, người thấy mình bây giờ như gió đầu cành, mây đầu
núi:
Quê hương chinh chiến đã qua
Tấm thân còn vẹn những là mừng thay
Giờ thời lên chốn gió mây
Nước khe gối đá trà say ngủ vùi.
Thật
là thanh thản. Sau thảm kịch với cảnh núi xương sông máu, giờ đây Người đã thấy
được lẽ Đạo trong hương bốc lên như từ lẽ vô thường của trời đất. Đọc Kiều,
chúng ta cũng được Nguyễn Du đưa vào những buổi uống trà nhàn nhã: “Hương gây
mùi nhớ, trà khan giọng tình”, câu này thì ai cũng thuộc nằm lòng. Đó là lúc
Kim Kiều vừa bước vào tình sử của hai người. “Trà chuyên nước nhất, hương dồn
khói đôi” là câu thơ trong Cung Oán của Ôn Như Hầu mà lúc đọc tôi không chú ý
lắm cho tới khi được một người bạn của thời đi dạy học ở Mỹ Tho nhắc lại cho
nghe. Người bạn đó nay không còn nữa: anh vượt biên và chết giữa biển đông.
Chén trà tưởng nhớ sáng nay thoảng vị ngậm ngùi.
Nhà
văn Mai Thảo mất như vậy là đã được mấy năm rồi đấy nhỉ. Để tưởng nhớ người của
một thời, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại bài sau đây của Mai Thảo trong đó có
nói một chút tới trà:
Đi vắng từ xa trở lại nhà
Bộ đồ cũ mặc, ấm trà pha
Tựa lưng vào vách tường thân thuộc
Trong cõi riêng buồn thấy lại ta.
Cũng
là ung dung đấy, nhưng sao cô đơn, vắng lặng quá. Cách đây hơn thế kỷ, Nguyễn
Tuân cũng đã viết những trang rất hay về trà. Có thể nói trên từng trang của Vang Bóng Một Thời đều có mùi trà. Bạn
có nhớ câu chuyện lão hành khất đã tiêu hết gia sản vào ấm trà nên phải đi ăn
xin. Một hôm trên đường hành khất, lão ghé vào nhà một phú hộ, gặp lúc gia chủ
cùng mấy người nữa đang dùng trà. Lão bèn ngồi nép bên góc cột chờ đợi để xin
được uống trà. Chủ nhà ngạc nhiên lắm, nhưng cũng chiều ý lão. Lão bèn lấy
trong túi cói ra bộ ấm chén, trịnh trọng đun nước pha cho mình một ấm trà. Uống
xong, lão đứng dậy nhăn mặt, nói trong
nhà có mùi trấu nên lão lấy làm ấm ức. Nghe nói, gia chủ tức giận coi lại gói
trà thì quả nhiên có mấy mảnh trấu trong đó. Chuyện có vẻ hoang đường nhưng kỳ
thú, phải không bạn?
Nguyễn Xuân Thiệp
Kỳ tới:
TRÀ
TRONG ĐỜI SỐNG DÂN TỘC
TRÀ
TRONG ĐỜI TÔI, ĐỜI BẠN