Cầu Đà Rằng Tuy Hòa Ảnh: Internet
Trên bàn
để một chiếc cái máy truyền tin bọc bằng
bao vải bố, một chiếc ra-dô ấp tân sinh, một dĩa rau lớn, một tô gan lẫn lá sả,
hai dĩa thịt nướng, bốn cái ly chén đủ loại đựng rượu đế và một xấp bánh tráng.
Phon kéo ghế cho một người vừa tới muộn.
- Không
còn chuyện chi quan trọng như cái vần đề này. Uống cùng anh em ít ly rồi lo
công vụ cũng không muộn.
Người tới
muộn lừng chừng ngồi xuống ghế, phân vân:
- Nói
hoài anh em vẫn không thông cảm, kẹt quá.
- Có chi
mà kẹt, để tôi gọi về nói anh chưa tới được là xong.
Người đối
diện với Phon vừa nói vừa đứng dậy nhắc chiếc máy truyền tin đặt vào lòng. Anh
ta kéo dài cần dây trời, bật “pin” cúi đầu gọi về trụ sở xã.
- Dùng
cái máy đó coi bộ cũng không khó. Phon nói. Trong máy có tiếng trả lời âm âm
phát ra. Người tới muộn áy náy:
- Phiền
mấy anh quá…
- Anh Năm
còn nói vậy tụi tôi giận đó. Từ hồi thằng Xanh chết tới nay, ngoài anh Năm, ba
đứa tôi còn biết thương ai hơn.
Năm cười
cảm động:
- Mấy anh
nói tới thằng Xanh khiến tôi
lại nhớ nó, thấy tội cho nó. Nó hoang mà điều nó cũng vui cũng dễ thương như
mấy anh đây.
- Sức mấy
mà nói tới thằng đó. Uống đi anh Năm.
Người đối
diện Phon giục; Phon trông cho mọi người nâng ly rồi mới cạn theo một hơi. Phon
không ham nhắc lại chuyện thằng Xanh. Nó chết buồn hơn cả mấy bài ca ruột của
nó. Cúc Hoa ôi, nếu chúng ta còn xa
cách nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị đầy ải
đơn côi trong ngục thất của tâm hồn. Có nhiều lúc vắng hai thằng bạn
thân còn lại bên mình Phon vẫn bắt chợt nghe mình ê a nhại lại giọng ca của
thằng Xanh ngày nào. Bây giờ thì Phon sắp xa nốt hai thằng này. Phon vừa nhập
nghề của chúng nó. Nhưng Phon không ở xã để được như thằng Đành ở bên thằng
Thấu, thằng Thấu ở bên thằng Đành. Hai thằng này nói Phon sướng hơn tụi nó. Ở
quận tuy ít thong thả hơn ở xã nhưng vui hơn, dễ kiếm đồ nhậu ngon lành hơn.
Phon đành tin tụi nó như vẫn tin tất cả những bất ngờ lúc nào cũng có thể xảy
ra không may cho mình. Cúc Hoa
ôi, nếu chúng ta còn xa cách nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế…
- Bữa nay
anh Năm khách sáo dữ. Ngồi nhậu mà còn suy nghĩ vậy là chưa phải hết mình với
anh em.
Đành vừa
nói vừa gắp một đũa thịt bỏ vô chén Năm, Năm đã uống ráo ba ly nhưng chỉ ăn
toàn bánh tráng với rau và một hai miếng gan. Năm lắc đầu tỏ vẻ bất lực trước
sự vồn vã của bạn nhưng đôi đũa không hề đụng vào mấy miếng thịt. Đành đang
cười thấy vậy chợt ngẩn ngơ nhìn Năm. Đôi mắt lông mày rậm nặng nề nom yên lặng
với những tia máu đỏ bừng bừng trong lòng. Bỗng nhiên Đành cất tiếng cười lớn,
hai chân đẩy cho lưng ghế ngả ra phía sau, mặt hếch lên mái nhà.
- Hay là
anh Năm nghi đây là thịt con ngựa trúng mìn hồi hôm nên hãi?
- Ai mà
nghi, mà hãi. Hãi sao nãy giờ ăn cả chục miếng gan.
Năm vừa
nói, vừa gắp một miếng thịt kèm với khế chua bỏ vào mồm, cạn một ly rượu, Tay
Năm quơ quất đưa ra trước mặt vớ lấy cái chai xị rót đầy một ly -khác, nốc luôn
một hơi.
- Coi tôi
uống vậy mà nói không hết mình sao được.
Giọng Năm có những âm thanh quấn quít, dính, sệt. Năm ăn và uống như quên
nuốt, mồm nói liên hồi tiếng cười thật lớn. Thấu nhổ trên bàn thờ một cái chân
hương, xỉa răng. Hai gò má bóng và dài. Hắn nhoài người rót rượu vào ly của
Năm:
- Bữa
rượu tiễn chú ba ít nhứt cũng phải vậy mới vui chớ. Vô nữa đi anh Năm.
Phon để ý
thấy Năm ăn như thể vội vã mà thực ra ăn rất ít, uống và nói thật nhiều. Phon
muốn gắp cho Năm một đũa thịt nữa nhưng lại thôi, chỉ gượng gạo phụ họa Thấu:
- Thấu
nói vậy mà trúng ý tôi đó. Vui thêm để kỷ niệm tôi lên đường làm bổn phận nam
nhi.
Đành đứng
dậy, kéo xích ghế, cầm xị rượu Phon
vừa rót đầy, lại vỗ vai Năm, rồi ngó vào mặt Năm lắc lư cái đầu bắt chước Trình
Giảo Kim nói với Đơn Hùng Tín bằng một bài ca điệu Quảng đông “ly rượu này… ày ày, em xin để tặng anh à à.” Năm dằn
mạnh ly xuống bàn, quắc mắt.
- Ta cho
phép.
Đành ê a
rót đầy ly Năm rồi đi vòng quanh bàn, tiếp tục ca lần lượt chuốc cho từng
người. Năm đã hết gìn giữ, ngả nghiêng theo tiếng hát của Đành, chốc chốc lại
dựng thẳng người, hét lớn “ta cho phép”. Nhưng mỗi lúc có ai gắp thịt bỏ vào
chén mình, hắn vẫn không tránh được vẻ sững sờ đột ngột.
Khi Thấu
nằm dài ra tấm ngựa gian bên cạnh vặn ra-dô nghe, Năm lảo đảo đứng dậy ra về.
Phon đưa hắn ra cửa và mồi cho hắn điếu thuốc.
- Không
phải thịt con ngựa hồi hôm đâu anh Năm. Lòng nó xổ cả đống lẫn lộn với lòng Cai
Bốn. Ai mà dám ăn.
Năm gục
gặc cái đầu bước xuống đường, ở trong nhà Đành và Thấu cùng căng mồm, vươn cổ
ói bừa bãi xuống đất. Phon lặng thinh đứng giữa khung cửa nhìn vào.
Cúc Hoa
ôi, nếu chúng ta còn xa cách nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi
anh còn là kẻ bị đầy ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn. Bây giờ
thì Phon đã hát lại tất cả những bài ca của thằng Xanh mà Phon nằm lòng. Ba giờ
gác cầu một ngày. Thằng Xanh vẫn còn có thứ an ủi được Phon. Phon vịn vào cây
cản xe sơn từng khoanh đỏ trắng mà hát, dựa vào thành cầu mà hát. Lòng cầu chạy
sâu hun hút giữa hai hàng vòm sắt cao ngất đen đủi. Ngửng cổ lên, bầu trời
vướng ở trên kia thật xa. Những phiến gỗ dầy nhấp nhô xếp ngang hai bên con
đường sắt hành cho xe lửa trước kia không có xe chạy qua trông như cỏ hoang.
Sát hai bên thành cầu, đường dành cho người đi bộ nhô cao, hẹp. Có rất ít người
đi trên đó trong một ngày. Chỉ có những ai đi xe hai bánh lật đật ghé vào khom
mình cúi xuống giữ cho xe ép vào lối đi tránh một đoàn G.M.C. hoặc M.II3 chạy
ầm ầm qua cầu. Những chỗ thành cầu phình ra để tránh xe đã hư và không được sửa
lại. Đứng ở đầu cầu, ngó đầu ra ngoài nhìn dọc lên, những chỗ đó nom như ái
chuồng sắt bỏ không. Mấy người sửa cầu có khi ngồi ăn cơm trưa ở trong những
cái củi đó, vừa ăn vừa có thể nhìn xuống những khoảng trống thiếu gỗ lát ở dưới
chân mình để thấy nước chảy ở dưới kia. Trên thành từng vòm sắt, một khoảng sơn
trắng nổi bật vuông vắn làm nền cho một chữ số nhịp cầu Phon di chuyển trong
vòng năm nhịp, có thể nhìn thấy dáng một vài người gác cầu khác lẩn khuất, bên
những vòm sắt lớn lao. Những lúc Phon và người gác đoạn cầu kể bên vô tình gặp
nhau ở lằn giới hạn, cả hai cùng cười im lặng quay lưng đi hoặc trao đổi vu vơ
một hai câu thật ngắn. Nhiều lúc Phon ở vào một tình trạng lơ mơ để thấy Cúc
Hoa có hai cánh tay trắng muốt chuốc rượu thằng Xanh, để nghĩ đến một ngày “có
điều kiện vật chất” mua thịt bò tươi thay cho thịt ngựa chết uống la-de chay
cho rượu thằng Đành thằng Thấu. Phon thường giật mình mỗi khi có tiếng xe sầm
sập qua cầu. Dần dần giật mình như thành một chứng bịnh. Phôn ưa đưa tay một
tay giữ mũ, một tay mở rộng ấn lên cầm xoay hẳn mặt đi cho xương đầu, xương cổ
kêu rắc rắc.
Phon rất
rành về ưu thế của những xe qua cầu. Xe quân đội, tất nhiên. Nhưng đáng để ý
nhất vẫn là đoàn chiến xa của thiết giáp. Mỗi lần những chiếc M.113 qua cầu,
tất cả như rung chuyển dữ dội. Những lúc đó, Phon khuất vào những chân vòm cầu
để tìm một chút vững chãi, yên dạ. Vào các buổi chiều, từ tỉnh qua để chạy vào
các làng, vào những con đường núi, đoàn xe từ từ, chậm chậm qua từng nhịp cầu,
những người lính nhô ra khỏi cục bướu thép, yên lặng, bâng quơ. Thị xã sau lưng
họ đã sáng màu đen néon, núi non và làng mạc trước mặt họ bắt đầu mờ khí núi.
Vào các buổi sáng, đoàn xe rầm rập trở về, trên xe có nhiều người lố nhố hơn, những chiếc mũ gài
vào cầu vai cũng nhềiu hơn. Tóc họ ngược ra sau. Lúc này hầu như không một
chướng ngại nào có thể làm họ tạm ngưng trên đường về. Họ không cần biết đầu
đàng kia có xe nào chạy sang không. Một lần hai thiếu úy từ thị xã ngồi trên xe
“ríp” chạy về quận được mười nhịp cầu thì gặp họ, đầu xe “ríp” và đầu xe bọc
sắt kề sát nhau, máy nổ rầm rầm. Phon hồi hộp đứng xa mà nhín. Trong một lát,
người ở hai xe như cùng bất động. Thiết giáp hốm đó chỉ có hai chiếc, do một
thượng sĩ chỉ huy. Cuối cùng, một thiếu úy nhảy xuống xe lại bên chiếc thiết
giáp:
- Chúng
tôi đã qua được già nửa cây cầu .
Người
thiếu úy vừa nói vừa chỉ lên con số 10 trên vòm thành cầu.
- Bên này
được đi trước.
Một giọng
nói gọn lỏn trên xe thiết giáp. Trên đó, có người đưa một gói thuốc cho các bạn.
Phon hơi nhúc nhích theo một phãn ứng tự nhiên nhưng rồi lại làm thinh. Người
thiếu úy phân vân, đứng yên. Người trên xe thiết giáp dõng dạc:
-Bên này
cũng đã vượt hết chín nhịp. Xe bên này nặng, không biết “de” bao giờ.
- Chúng
tôi muốn nói một cách hợp lý.
Người
thiếu úy nói. Có tiếng cười trên xe thiết giáp.
-Xe này
nặng không biết “de” bao giờ.
Một giọng
khác lặp lại. Người thiếu úy quay trở lên xe nói gì với bạn. Tiếng máy vẫn rầm
rầm. Một lát sau chiếc xe “ríp” “de” về phía bên kia cầu. Trên cả hai xe thiết
giáp cùng nổi lên những tiếng cười ồn ào.
- Nút
đồng ngoài chợ bán thiếu gì. Chạy đi, bộ nằm chình ình giữa cầu hoài sao.
Có tiếng
người giục. Và đoàn xe chuyển xích nghiến trên sàn gỗ.
Phon ngơ
ngẩn nhìn theo, nghĩ thầm:
- Mỗi
ngày gặp một vụ như vậy có khi đở sầu.
Phon dựa
vào thành cầu tìm một thoải mái lạnh ngấm vào da thịt từ chân vòm sắt. Lúc đó,
Phon mong được ngồi trên chiếc xe thiết giáp dù có phải đi xa, tới những miền
sự sống chết chỉ cách nhau có mấy phân bọc sắt. Phon sẽ có tiền lương đầy đủ,
có thể bỏ ra tám trăm mua một bộ thủy quân lục chiến như người thiếu úy ngồi
trong phòng việc ở quận để mặc ra tiệm, uống la-de và trừng trị bòn cao bồi nếu
chúng nghinh Phon. Và nhất là Phon khỏi phải nghĩ nhiều về ông ta. Kề cả hai lần
vào hai cuối tháng vừa qua, Phon gặp riêng ông năm lần tất cả. Đều ở nhà riêng.
Ba lần trước, Phon vào với một người quen. Ở nhà ông, người quen đó vẫn nói
nhiều với Phon. Như thay mặt cho ông. Ông ta cũng ngồi ngay bên Phon nhưng mặt
ông luôn luôn khuất sau tờ báo.
- Vào
nghĩa quân thì được ở gần vợ con cha mẹ.
Câu nói
duy nhất của ông sau tờ báo. Mấy lần đó khi ra về, Phon không nhớ được rõ mặt
ông, chỉ có bàn tay thô lớn có nhựa thuốc bám trên hai móng thường rơi tờ báo
ôm lấy ly la-de là Phon nhớ thật tường tận. Nhưng bây giờ Phon coi như đã quen
ông. Có lần ông bị quận trưởng xài xễ, Phon đã thấy tội nghiệp. Hồi đó Phon vẫn
tưởng ai vào nghĩa quân cũng mất ba tháng lương đầu cho 6ong ta. Nhưng từ hôm
có ông già về đây, xe chạy vun vút trên sàn cầu, Phon hiểu mình có thể vào
nghĩa quân mà vẫn có tiền ngay từ tháng đầu tiên. Ông già tò ra vui và thương
bọn Phon. Lúc ông nói khôi hài, Phon thấy ông nhìn mình. Trước khi ra về ông
nói anh em có gì thắc mắc cứ phát biểu hoặc viết cho
ông theo địa chỉ ông vừa cho.
Một người
bạn đã nói nhỏ với Phon:
- Mất
không cho nó ba tháng lương kỳ quá. Nó buôn tụi mình, tố cáo đi. Mầy nói lên
một tiếng sẽ có liền
nhiều tiếng khác nói
theo. Nó sẽ bị trói như con heo tức thì.
Phon giận
dữ:
- Mầy định
tính nước chết cho tao đó sao? Ai nói theo tao? Mấy thằng học sinh có tên trong
sổ lương? Mấy thằng nghĩa quân mất tích mấy hôm rồi chả chưa bôi tên? Định tính
nước chết cho tao sao đó mầy?
Tuy nói vậy,
song từ hôm đó Phon hết còn tội nghiệp ông ta mỗi khi ông quận trưởng nổi giận.
Trước kia, Phon cho mình còn hơn bọn học sinh. Bọn chúng cả sáu tháng sau mới
có tiền. Phon mất ba tháng còn đỡ. Bây giờ Phon thấy cùng xui như nhau. Đã hai
tháng, hai lần cầm bút ký sổ lương để ông ta lãnh tiền, Phon cho là ai cũng có
hồi không may. Còn hai tháng nữa. Mình gác cầu hoài nên coi ngày tháng nó lâu
hết vậy thôi. Bọn nó mau chân hơn mình, bọn nó đỡ lỗ, không tốn một cắc, thằng
Đành, thằng Thấu, thằng Xanh… Ngày còn lại ở bên quận, có đêm ôm súng ngồi sau
xe qua cầu sáng thị xã với ông, Phon đã nghĩ vậy. Ông thường sang bên đó vào
những đêm khao quân, con gái ông sang ca hát giúp vui. Con gái ông là một nữ ca
sĩ tân nhạc địa phương, biệt hiệu Thùy Dương. Trừ những đêm bận đi nằm ngoài
ruộng, mỗi lầh Thùy Dương xuất hiện trên sân khấu, không bao giờ thiếu mặt ông
ngồi trên dãy ghế hàng đầu. Thùy Dương mười bảy tuổi, trán rộng, cằm nhỏ, tóc
Thanh Thúy, giọng Thúy Nga, nụ cười tê tái Trúc Mai. Ông thương Thùy Dương bằng
tình thương của người cha già đối với đứa con độc nhất. Ông kêu là “người bạn
nhỏ bướng bỉnh” của ông. Mỗi lần sang thị xã, ông thường ăn vận chình tề như
những lần chỉ huy binh đội dàn chào các ông lớn. Thùy Dương bình thường ưa mặc
“din”, áo sơ mi, nhưng mỗi khi đi trình diễn, luôn luôn mang áo dài tươi màu,
cha con ông thường đi tới quận rồi mới chở bọn Phon đi theo. Hai cha con ông
ngồi băng trước, nói cười suốt dọc đường vì những điều thật vụn vặt. Bọn Phon
ngồi sau, ba người. Hai người mang súng và một người mang máy truyền tin liên
lạc thường trực với bên quận.
Đến rạp
hát, bọn Phon ở ngoài. Chiếc xe đậu xa cửa rạp trên một chỗ vắng vẻ,
nhưng ba người vẫn có thể nghe được tiếng đờn hát từ trong rạp vọng ra. Lúc đó
Phon không biết làm gì cho qua bốn giờ chờ đợi. Nói chuyện vô tình hướng câu
chuyện đến việc ăn nhậu. Phon kể những món ăn cha Phon thường làm hồi ông còn
sống, đến món cá tràu um rắc lá lốt của thằng Xanh, đến cảnh sửa soạn một bữa
cỗ có vịt tiềm, mướp đắng nhồi thịt… Hai người bạn thường cắt ngang lời Phon.
“Nghèo mà ham” Phon gượng gạo bào chữa:
- Sống
không ham cơm ham thịt sống chi?
Phon ra
ngồi một mình trên bậc lên xuống ở cửa xe, hết nhìn về phía những hàng quàn
hàng nước ở trước rạp hát lại ngửng lên trời nhìn sao. Trời càng về khuya quanh
rạp càng vắng, tiếng ca tiếng đờn vang ra càng dìu dặt. Chiếc máy truyền tin
trong xe chốc chốc lại vang lên tiếng người ở bên đồn nghe như giọng nghẹt mũi. Cúc Hoa ôi, nếu chúng ta còn xa cách nhau vì kẻ
tuyền đài người
dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị đầy ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn. Phon nghe mình hát lúc nào mà
không hay.
- Im đi
cha nội, làm ơn cho tụi tôi nghe hát ở trỏng.
Hai người
bạn Phon lên tiếng váo lúc Phon chợt nhận ra mình ngâm nga như nhận một lỗi
lầm. Phon xuống đường trật mũ, đi loăng quăng cho đỡ sốt ruột. Phon không hiểu
tại sao những tiếng động ở đây lại làm Phon bức rức, không như những buổi gác
cầu. Trong nỗi bứt rứt đó, Phon thầm mong buổi ca nhạc đêm nay thiệt hay cho
cha cô Thùy Dương thiệt vui. Đêm nay, sau khi ở rạp trở ra, ông cũng cho bọn
Phon ăn uống và tỏ ra thân mật hơn bao giờ. Bốn giờ trong rạp hát, nơi ông đã
có nhiều thay đổi, dù chỉ trong một thời gian ngắn đủ để ông thấy hứng khởi mà
cho bọn Phon no nê. Ông thường ngồi ở hàng ghế đầu bên những ông lớn trong tỉnh
và những anh hùng còn mệt mỏi, những chiến binh tay quấn băng, mặt sứt mẻ.
Chiếc ghế da êm ái làm ông có cảm tưởng quen thuộc khi ngồi trong phòng những ông lớn,
nhưng bộ quân phục chỉnh tề lại khiến ông nghĩ mình gần gũi những chiến binh
hơn. Và khi Thùy Dương được giới thiệu, ông hồi hộp chờ đợi rồi thấy “người bạn
nhỏ bướng bỉnh” thướt tha xuất hiện dưới ánh đèn mầu, ông đột ngột nhận rõ mình
cũng chỉ là một người lình già đi nghe hát. Thùy Dương hết còn bướng bỉnh, hết
còn những câu nói tiếng cười vụn vặt mà là một thiếu nữ có một ngôn ngữ như
thơ. Ông xúc động vì ngôn ngữ như thơ, lạ tai đó, con gái ông đang ở một thế
giới khác có màu hồng màu xanh màu tím đổi thay, có tiếng nhạc dìu dặt quyến rũ
những chiến sĩ dưới này, những người ngày mai, ngày mốt có thể nằm chết. Càng
nghe con hát, ông càng xa dần con, càng nghĩ đến cuộc vui qua mau, càng thấy
gần những người băng tay quấn mặt, thấy gần những đêm nằm ngoài ruộng, trong
đồn. Tiếng hát Thùy Dương đưa ông vào cô đơn của nỗi chết.
Và khi ra
khỏi rạp, bên Thùy Dương, ông nghĩ đến bọn Phon, những kẻ cùng trên một đường
với mình. Phon được ăn no và không mong gì hơn mỗi đêm đều có tiệc khao quân.
Cúc Hoa
ôi, nếu chúng ta còn xa cách nhau vì kẻ tuyền đài người dương thế thì mãi mãi anh còn là kẻ bị
đầy ải đơn côi trong ngục thất của tâm hồn. Nước đã lên mênh mông. Cách đây bốn năm hôm lòng sông còn cạn khô, nước
động trong những vũng sâu rải rác, trâu bò còn đi thung thăng dưới chân cầu.
Bây giờ nước đã ngập hết các vết tích từ bãi cát đầy vết xe nhà binh ở đầu cầu
đến những gò cát nổi cao như những cù lao xanh um cỏ. Làng mạc ở xa đã thành
những vũng màu lam gọn mắt. Ghe xuất hiện trên mặt nước đã nhiều, xuôi ngược
thênh thang, tuy nhiên thuyền lớn vẫn hay bị mắc cạn. Phon nhìn trong trời mưa
lấm tấm, những người quần áo sũng nước, ngâm mình dưới dòng sông mím môi ôm
bánh lái dắt đi hoặc cong người dồn sức đẩy đằng sau mạn thuyền. Thuyền chất
đầy lúa mới gặt thân còn tươi, lá còn phảng phất màu xanh. Thuyền lừ đừ trên
nước, tiếng ấm ới của người đẩy thuyền ở sâu, ở xa. Chân cầu nước xoáy dữ dội.
Mạn cầu nhớp nước. Những chiếc đầu bù-loong gắn dình với các thanh sắt nhỏ
giọt. Đôi bàn chân Phon nhúng hoài trong giầy đầy nước, nhiều lúc bắt
lạnh rùng người. Lòng cầu sạch trơn, lớp nhựa đường trên gỗ láng bóng thêm phần
hun hút. Phon thêm một điều thuốc lá nuốt trọn từng ngụm khói.
Máy chiếc
Lăm-bét-ta qua cầu. Tiếng máy ò ò vang vào các thành sắt. Hông xe đều che kín.
Một vài vệt dầu loang trên sàn gỗ óng ánh. Tới đồn canh bên này cầu, một chiếc
xe đậu lại, một người con gái bước xuống. Phon nhận ngay ra người con gái
thường sang ngủ ngày với trưởng đồn. Cô ta khoác áo mưa màu vàng đậm, vận quần
trắng áo hoa nhạt màu. Người mảnh khảnh mặt hơi tái song hồn nhiên. Phon có
quen cô ta. Hôm ngày trưởng đồn sang nhậu với ông thiếu úy được gắn huy chương
ở bên quận, cô ta ngồi đợi ông và hỏi chuyện Phon. Phon nói chắc còn lâu ông
trường đồn mới về. Cô cười “tôi nói tôi chờ mà Phon”. Ay náy không biết kiếm
chuyện chi nói trong thời gian lâu thế, bỏ ra ngoài. Nhưng chỉ lát sau Phon lại
quay vào gượng gạo lặp lại “còn lâu ổng mới về”. Cô gái ngồi trong chiếc ghế
độc nhất của người trưởng đồn ngửng nhìn Phon cười “Tôi chờ”. Sau một lát ngập
ngừng, Phon hỏi “cô… có chi cần gặp ổng?” Nói xong Phon thấy ngượng. Cô gái vẫn
cười “có chi đâu mà cần. Muốn chờ thì chờ vậy thôi”. Cô gái có vẻ vui nhưng
ngồi yên cả tiếng đồng hồ không tỏ ra uể oải cũng không rờ rà tới các thứ trong
phòng. Đên trưa người trưởng đồn vẫn không về, cô gái mới đứng dậy bảo
Phon “Tôi về, anh.”
Phon đưa
cô ra cửa đồn. Cô không đi ngược xuống quán con nhỏ mắt lé ăn nem nướng cũng
chờ xe như mọi khi. Cô lững thững sang cầu, tay lướt trên thành sắt, tóc và hai
ống quần bay rạt về phái sau. Cặp đùi cô nom thiệt nhỏ. Phon không muốn nghĩ cô
đã hết tiền về xe tuy không thấy cô cầm nơi tay chiếc khăn bọc tiền như mọi
khi.
Cô gái
giở tiền trong khăn tay trả tiền người lái xe, quầy quả bước vào đồn. Đồn là
một nhà ga cũ, xung quanh có hàng rào thép gai và các hầm lộ thiên. Chỗ cửa bán
giấy xe trước kia có mấy người lính nhô đầu ra xét giấy tờ các xe vào thị xã.
Cánh cửa đóng im ỉm ở đầu nhà ga mở cho
cô vào rồi đóng lại. Một lát cửa lại mở, mấy người lính ra đường bước lại phái
cây gỗ cản đưa chuyền nhau một gói thuốc. Phon mấm năm đầu ngón chân trong lòng
giấy ướt sũng có cảm giác bị tê và một móng chân bị nhét cát nhưng không rõ
ngón nào. Phon vuốt mặt, vẩy tay cho đỡ ướt, bước từng gượng nhẹ. Giày quá
rộng, mỗi chân lồng hai chiếc vớ dày vẫn còn lỏng.
Từ sau
mấy chiếc xe đậu ở đầu cầu. Thằng Đành chụp áo mưa đạp xe vượt lên. Phon giơ
tay vẫy nhưng nó không hay. Nó dừng lại bên cây gỗ cản, thò một chân ra khỏi
chiếc áo mưa nhà binh chống xuống đường hỏi han mấy người lính. Họ chỉ về phái
cầu. Phon giơ tay vẫy, chân bước sang mạn cầu bên kia chờ bạn. Đành hất mặt lên
cười với bộ mặt bón nước. Hắn đạp xe lên, dừng trước mặt phon, chân phải đặt
trên đường dành cho bộ hành.
- Mạnh
giỏi mầy?
- Mạnh.
Có chuyện chi đó?
- Có
chuyện chi đâu.
- Rảnh
chuyện vậy na.
- Ờ, tụi
tao mà.
Phon sờ
vào chiếc áo lụng thụng của bạn:
- Tụi mầy
xếp thiệt
Đành liếm
nước quanh môi, nghe những tiếng súng từ vùng núi đầu sông vọng xuống.
- Vậy là
đỡ rồi. Chỉ còn có hai tháng nữa mầy đã lương.
- Bữa đó tao
gắng xin về gặp tụi mầy. Nghe nói sau bữa tao đi thằng Năm có chuyện với tụi
mầy?
- Nó
thông cảm rồi. Bữa thằng con nó chết nó cũng mời tụi tao lại nhậu. Con có chết
được hơn một tháng
Thiệt
tội.
Thằng
Thấu nói hay quá nó cũng đỡ sầu.
- Ơ Thấu…
Một chiếc
xe “ríp” phóng vụt qua, Phon quay mặt ra thành cầu.
- Cấm nói
chuyện trên cầu?
- Cấm.
Đành ngó
trước ngó sau rồi vòng xe trở lại:
- Vậy tao
về
Phon dựa
lưng vào thành cầu:
- Tao có
lời thăm Thấu.
Dường như
vừa có một dòng nước chảy từ gáy xuống sống lưng. Phon quơ tay ra sau cọ mu bàn
tay vào lưng nhưng chỉ thấy lớp áo nhựa vừa trơn vừa lạnh. Phon sửa lại chiếc
mũ đội đầu cho riềm mũ bao ra ngoài cổ áo mưa. Mưa chợt đổ xuống dồn dập. Sàn
cầu bắn tóe những hạt nước lớn. Ngọn núi cao ngất đỉnh đội một phiến đá vuông,
ở cuối khúc quành vừa hiện ra mờ mờ đã biến mất. Thản nhiên, Phon khom người
lại dưới một cây sắt lớn. Đầu Phon rúc dưới cây sắt, hai vai nhô ra ngoài. Phon
nghĩ tới những lúc ngồi với vài người bạn trong đồn ở ngoài quán con nhỏ mắt lé
để quên những giọt nước dội từ vai bắn lên hai má. Mưa lớn như vầy, mái quán dột hết. Nhưng ít ra cũng còn một chỗ không bị hắt mưa
để Phon ngồi xuống uống ít ly ngó con nhỏ co ro ôm hai vai loanh quanh bên
mình. Hai tháng nữa, Phon có thể nhờ nó mua mực tươi ở chợ quận về xào với thơm
xanh cho thỏa lòng mong muốn.
Một vài
chiếc xe chạy vút vào lòng cầu, bỏ
lại tai Phon tiếng những phiến gỗ bấp bênh bị bánh xe lướt qua. Tuốt bờ sông
bên kia rài rác vài chiếc thuyền bất động mơ hồ. Dòng nước mỗi lúc như thêm dữ
dội xoáy quanh những chân cầu bao dây kẽm gai. Phon ước những giọt nước trên
môi mình là rượu. Phon vuốt mặt, nhô ra khỏi cây sắt.
Về phía bên bờ này, có một vật gì trôi lại gần cầu. Mặt sông ở dưới kia thật
rộng, mờ mờ, vật bị trôi đậm màu. Lúc chưa trông rõ, Phon thấy vật đó lúc chìm
hẳn lúc nhô lên mặt nước. Khi đã đoán chừng nó là một vật, Phon thấy chốc chốc
từng phần con vật lại hiện trên mặt nước sau một hồi mất tă,. Một con bò, chiếc
đuôi vật vờ vừa chìm nghỉm, một mỏm đầu với hai cái sừng đã nhô lên. Có lúc cả
chiếc đâu nó trồi lên khỏi mặt nước, mõm há rộng nhăn răng. Phon mong nó sẽ
đụng vào một vạt cát thiệt cao để nom cho rõ. Dòng nước quá mạnh. Con vật trôi
mau, tựa vào thành cầu, Phon cúi xuống
nhìn. Chiếc đầu với hai sừng nhô lên một lần nữa. Con vật chắc mới chết. Lúc
Phon ra gác cầu trận đánh mạn trên sông mới bắt đầu. Phon chắc nó cũng trúng
đạn như con bò tuần trước trôi qua đây. Chân cầu và những phên kẽm gai có thể
giữ nó lại. Con bò đã trôi vào gầm cầu. Phon
không còn nhìn được, Phon bước sang bên kia, cúi gập người trên thành sắt không
nom được suốt chân cầu. Phon chờ, tuy biết nó có thể mắc kẹt. Thân một cây dừa
trôi sau con bò đã băng băng qua cầu.
Phon trở
qua trở lại hai bên thành cầu. Tầm mắt Phon vẫn bị chận lại. Phon bứt rứt lắng
tai xem có tiếng động nào chứng tỏ con vật còn đang ở dưới chân cầu. Chỉ có
tiếng nước xoáy.
- Nó đã
bị kẹt vào dây kẽm gai.
Phon lẩm
bẩm. Tiếng nước xoáy dội mạnh lên tai Phon.
Trên bàn để
một máy truyền tin bọc bằng cái bao vải bố, một chiếc ra-dô ấp tân sinh, một
dĩa răn lớn, hai dĩa thịt nướng, ba cái ly chén đủ loại đựng rượu đế và một xấp
bánh tráng. Đành kéo ghế cho Năm:
- Không
còn chuyện chi quan trọng hơn cái vấn đề này, uống cùng anh em ít ly rồi lo
công vụ cũng không muộn.
Năm lừng
chừng ngồi xuống ghế, phân vân:
- Nói
hoài anh em vẫn không thông cảm, kẹt quá.
- Có chi
mà kẹt, để tôi gọi về nói anh chưa tới được là xong.
Đành lấy
mấy kéo cần dây trời, bật “pin” cùi đầu gọi về trụ sở xã.
Năm áy
náy:
- Phiền
mấy anh quá.
- Anh Năm
nói vậy tụi tôi giận đó. Từ hồi thằng Phon chết tới nay, ngoài anh Năm, hai đứa
tôi còn biết thương ai hết.
Năm cười
cảm động:
- Mấy anh
nói tới thằng Phon khiến tôi lại nhớ nó thấy tọi nó. Nó ham ăn nhậu mà điều nó
cũng vui, cũng dễ thương như mấy anh đây.
- Sức mấy
mà nhắc tới thằng đó. Uống đi anh Năm.
Ngồi nhậu mà còn suy nghĩ. Đành cất tiếng cười lớn
ngửa mặt lên trời. Thịt ngựa. Thịt bò. Ta cho phép. Cúc hoa em ôi. Ta cho phép.
Một đùi thịt bò còn nóng máu, một xị rượu lúc đã
thay quần áo khô, có lẽ không còn điều gì đáng ước ao hơn thế. Tay Phon nhiều
lúc đặt trên cán dao bên thắt lưng. Một đùi thịt bò, một xị rượu lúc đã thay
quần áo khô. Phon nhìn về phía người bạn gác ở nhịp cầu đàng kia. Anh ta vẫn
còn khuất vào một cây sắt nào đó để trú mưa. Không ai biết được cái đùi bò của Phon cả. Có chăng một mình con nhỏ mắt lé. Có cần gì phải chờ hai tháng
nữa. Còn những đêm khao quân, còn tiếng súng trên kia và dòng sông này. Tao sẽ
nghĩ, sẽ nhớ đến tất cả bọn bay. Cúc Hoa em ôi…
Phon thắc thỏm nhìn xuống dòng nước. Con bò chắc
chắn đã bị kẹt nhưng vẫn có thể trôi đi bất ngờ, Phon tựa vào thành cầu chờ đổi
gác.
Mưa ngớt dần. Người Phon nhiều lúc nổi da gà bắt
rùng mình vì một cơn gió ở dưới sông tạt lên. Phon nhìn về dốc cầu. Sau cây cản
gỗ, xe đậu nối đuôi. Đã hết giờ làm buổi sáng. Các công chức làm ở quận đã trở
về thị xã. Những chiếc xe hơi que gạt hạt nước trên kính quệt qua quệt lại uể
oải, máy nổ dồn dập, nóng chảy. Những chiếc Lăm-bét-ta ướt át có nhiều người
mặc áo mưa và ngậm khói thuốc.
Mấy người lính từ trong đồn ra đổi gác. Họ đi hàng
một, sát thành cầu. Phon cởi mấy nút áo nghe như ngực mình bốc hơi. Người bạn
thay thế Phon nói:
- Tao
đang nghe dở sáu câu.
Bọn Phon thong thả trở về đồn. Qua một chiếc xe
hơi, có dấu thập tự, Phon nghe có tiếng cười thật trong của mấy cô mặc áo mưa
màu với người đàn ông ngậm ống điếu tì tay trên bánh lái. Phon thoáng có ý định
xin họ mấy viên thuốc nhức đầu nhưng chân vẫn bước theo các bạn vào đồn, tháo
giày, cất súng.
Chiếc bảng cấm ở đầu cầu được xoay mặt. Đoàn xe từ
từ lên cầu để khói lại phía sau. Một lát, chiếc bảng cấm lại được xoay ra. Từ
phía thị xã, bọn học trò quần trắng áo trắng ngồi trên xe đạp lũ lượt qua cầu.
Hôm nay là thứ hai.
Nắng lộ dần trên các vòm cầu. Cánh cửa đóng im ỉm ở
đầu nhà ga bật mở. Người con gái sáng ngủ ngày với trưởng đồn nắm chiếc khăn
tay đi ra, bước lên một chiếc Lăm-bét-ta. Phon nắm một con dao, bước xuống bờ
sông.
Y Uyên
(1943-1969)
TIỂU SỬ
Tên thật
Nguyễn Văn Uy
Sinh năm
1943 tại làng Dục Nội, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên.
Là con cả
trong gia đình có 9 người em.
Năm 1954
cùng gia đình di cư vào Nam, cư ngụ tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Học Trung
học tại các trường Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An (Sài Gòn)
Tốt nghiệp
trường Quốc gia Sư Phạm Sài Gòn năm 1964.
Dạy học
tại Tuy Hòa, Phú Yên từ 1964-1968.
Nhập ngũ
khóa 27 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, mãn khóa chuyển về đóng quân tại đồn
Nora Phan Thiết, bỏ mình trong trận phục kích dưới chân núi Tà Lơn ngày
8-1-1969.
Tác phẩm
đã xuất bản:
TƯỢNG ĐÁ
SƯỜN NON, tập truyện (Thời Mới, 1966)
BÃO KHÔ,
tập truyện (Giao Điểm, 1966)
QUÊ NHÀ,
tập truyện (Trình Bày, 1967)
NGỰA TÍA,
truyện dài (Giao Điểm, 1967)
CHIẾC
XƯƠNG LÁ MỤC, tập truyện (Tân Văn, 1968)
ĐUỐC SẬY,
tập truyện (Văn Uyển, 1969)
CÓ LOÀI
CHIM LẠ, tập truyện (Tân Văn, 1971)
Nguồn:
Thư Quán Bản Thảo
(tập 18
tháng 2 năm 2005)