Tuyển tập thơ PHẠM CAO HOÀNG
Nhà xuất bản THƯ ẤN QUÁN
Hoa Kỳ - Tháng 5.2010
Hoa Kỳ - Tháng 5.2010
Bìa và phụ bản của Họa sĩ ĐINH CƯỜNG
Tôi thấy nhiều nhà thơ chọn khoảng thời
gian mười năm làm cái mốc đánh dấu sự thay đổi, thường là nhìn lại một cuộc
tình. Vâng, vâng, tôi nhớ Nguyễn Tất Nhiên với hai năm tình lận đận và năm
năm trời không gặp của Phạm Văn Bình hay chỉ cần một năm qua là phai mờ hương
cũ như trong bài hát của Phạm Duy. Tôi mạo muội xem đây là trường hợp ngoại
lệ bởi vì tôi có thể dẫn chứng nhiều nhà thơ khác, Vũ Hoàng
Chương chẳng hạn, đã dùng mốc thời gian mười năm đánh dấu mối tình. Trong bài
thơ Lá Thư Ngày Trước Vũ Hoàng Chương hai lần nhắc đến chữ mười
năm.
yêu
một khắc để mang sầu trọn kiếp
tình
mười năm còn lại những tờ thư
và
yêu
mê thế để mang sầu trọn kiếp
tình
mười năm còn lại chút này đây
và
thế mà
tan tác mười năm mộng
có
kẻ ra đi chẳng một lời
nửa
kiếp lênh đênh dừng phố cũ
một
mình trơ với tuổi ba mươi (Phố Cũ)
và
Thời
gian qua, anh chỉ suốt mười năm
tiếc
cho hoa đang nụ nguyệt đang rằm (Tình Xưa)
Không riêng gì nhà thơ Vũ Hoàng Chương,
nhà thơ Phạm Công Thiện cũng dùng cái mốc mười năm để tưởng nhớ trong
bài thơ Bất Nhị.
mười
năm qua gió thổi đồi tây
tôi
long đong theo bóng chim gầy
một
sớm em về ru giấc ngủ
bông
trời bay trắng cả rừng cây
Mười năm trong thơ Vũ Hoàng Chương là thời
gian chứa đầy cơn đau, ngỡ ngàng với mất mát. Mười năm trong
thơ của Phạm Công Thiện lãng đãng như cánh chim, hoa trắng phất
phơ đầy trong gió, phảng phất hươngThiền Ngoài Vũ Hoàng Chương còn có Phạm
Thiên Thư (Dấu Chân Chim), Nguyễn Bắc Sơn (Một Ngày Nhàn Rỗi), và Trần Dzạ Lữ (Mười
Năm Ở Chợ) là vài thí dụ tiêu biểu.
Tập thơ Mây Khói Quê Nhà của Phạm Cao
Hoàng bao gồm các chủ đề thường thấy ở các nhà
thơ cùng thế hệ với ông, như Nỗi Buồn Chiến Tranh, Tuổi Trẻ,
Tình Yêu, và Thân Phận Tha Hương. Bài thơ đầu tiên Đi Giữa Chiến Tranh viết
năm 1969 vào thời điểm Việt Nam đang triền miên trong lửa đạn. Tuổi trẻ Việt
Nam như những chàng Romeo ngây thơ, bước vào chiến tranh là đương đầu với
cái chết. Phạm Cao Hoàng trong khi thương tiếc cho tuổi trẻ của thế hệ ông
đã dùng cái mốc thời gian mười năm.
quê
cũ mười năm mây lớp lớp
mười
năm mưa khóc buổi sang mùa
dưới
trời sương lạnh rơi tan tác
rét
mùa đông cũ rét lê thê
Mây lớp lớp làm tôi nghĩ đến câu thơ “bạch
vân thiên tải không du du” (có ai đó đã dịch là ngàn năm mây trắng lửng
lơ trôi) và từ đó thấy ngậm ngùi khi mây vẫn vô tư bay hoài ngàn
năm còn những cuộc đời trai trẻ bị cắt ngắn trong chiến tranh.
Mười năm ông xa nhà vì chiến cuộc, nỗi nhớ quê nhà gắn liền với cái rét của
mùa đông được viết thành những câu thơ ăm ắp nỗi buồn. Khôngbuồn sao
được vì:
ai
bắn vào hồn tôi trái nổ
đứt
từng mạch máu nát tim tôi
vỡ vỡ chiều
nay tôi sắp vỡ
chiến
tranh chiến tranh bao giờ thôi
Các nhà thơ Việt Nam người nào cũng phản
chiến. Càng mang tính chất nhân bản, càng thương yêu cuộc đời và loài người người
ta càng nên chống chiến tranh, ngoại trừ khi cần phải bảo vệ quê
hương.
Trong
bài thơ Hành Phương Đông nhà thơ Phạm Cao Hoàng trở lại với thời
điểm mười năm.
người
ba mươi ta cũng ba mươi
kể cũng
đã mười năm rồi, xa lắc
thì
vui đi cho hết một đời
rằng
ta kẻ trời cho sống sót
mười
năm, ta hay ngươi người viễn khách
rét
chưa về mà hồn lạnh căm căm
kể cũng
đã mười năm rồi ngươi hỡi
ngửa
nghiêng cùng lịch sử thăng trầm (Hành Phương Đông)
Có một điều tôi chú ý và lấy làm thú vị ở đoạn
thơ trích trong bài Hành Phương Đông là bài này được viết vào năm 1971 có
nghĩa là lúc ấy tác giả Phạm Cao Hoàng mới hai mươi mốt tuổi thôi. Mười năm trước tác
giả chỉ là một chú bé mười một tuổi. Điều gì đã xảy ra và tác động đến
tâm hồn của nhà thơ? Phải chăng đây là một dụng ý khéo léo của tác giả khiến
ông chủ bút tờ báo nghĩ làbài thơ là của một nhà thơ già dặn
tuổi đời? Đọc tập thơ Mây Khói Quê Nhà, tôi thấy những bài thơ từ năm
1969 cho đến 1971 có phong cách của một người viết (ra vẻ) già dặn, đó là giọng
thơ của một tráng sĩ phong sương, đặc biệt là bài Hành Phương Đông.Tuy
nhiên, phân tích cho kỹ thì đây là những bài thơ mà nhà thơ trẻ tuổi
Phạm Cao Hoàng chịu ảnh hưởng của nhiều nhà thơ tên
tuổi thời tiền chiến như Nguyễn Bính (Hành Phương Nam), Huy Cận (Trường
Giang), Thâm Tâm (Tống Biệt Hành). Sự ảnh hưởng này làm thơ của ông
thêm phần phong phú như cách dùng điển tích của các nhà thơ xưa. Mây
lớp lớp làm người đọc không khỏi rung động nghĩ đến hình ảnh tuyệt đẹp của
lớp
lớp mây cao đùn núi bạc
chim
nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
chiều
quê dơn dợn vời con nước
không
khói hoàng hôn cũng nhớ nhà (Trường Giang, Huy Cận)
Kể từ năm 1973 nhà thơ Phạm
Cao Hoàng chuyển hướng, viết rất nhiều thơ tình. Từ năm 1973 cho đến
năm 1979 tôi không thấy cáimốc thời gian mười năm và giọng thơ không còn
cái vẻ tráng sĩ phong sương nữa. Mãi đến năm 2009 trong bài thơ Dù
Sao Vẫn Cám Ơn Đời ông viết ở Virginia năm 2009 đề tặng nhà
thơ Trần Hoài Thư ông mới dùng lại mốc thời gian mười năm.
Mười năm là một khoảng thời gian đủ dài
để nỗi đau của một mối tình tan vỡ lắng xuống, chỉ còn đọng lại
những ngậm ngùi, nhưng mười năm xa quê mà nỗi nhớ nhà trong tim ông vẫn cồn
cào.
mười
năm nước chảy qua cầu
chuyện
về đất nước là câu chuyện buồn
mười
năm sống kiếp tha phương
thân
nơi biển bắc mà hồn biển đông
mười
năm thương ruộng nhớ đồng
lòng
còn ở lại sao không quay về
mười
năm nhớ đất thương quê
bước
đi một bước nặng nề đôi chân
mười
năm một thoáng phù vân
tiếng
chim vườn cũ mùa trăng quê người
dù
sao vẫn cám ơn đời
biển
xanh và sóng núi đồi và em
mười
năm như một giấc mơ
Đem so sánh hai bài thơ cùng dùng cái mốc
mười năm, Đi Giữa Chiến Tranh (1969) và Dù Sao Vẫn Cám Ơn Đời (2009) tôi
thấy rõ ràng một bước tiến dài trong cách ông thể hiện tình cảm. Trong bài
sau, câu thơ biểu lộ tình cảm đậm đà hơn, lời thơ chất chứa suy
tư hơn. Ở đây phải công bằng mà nói, trong bài thơ Đi
Giữa Chiến Tranh ông chỉ có hai câu nói về mười năm nhưng ông dùng chữ mây
lớp lớp gợi lên sự phù du của kiếp người và cái vô tình của thời gian rất
đắc. Khi nhà thơ còn trẻ tuổi ông dùng mưa thay nước mắt để tả nỗi
buồn. Vài mươi năm sau cũng là nỗi buồn mười năm nhưng câu thơ cô đọng, lời
thơ mượt mà, tình cảm sâu kín mà nồng nàn. Bài thơ cho thấy tác giả buồn
vì nhiều nỗi, chuyện đất nước sau cơn chinh chiến, chuyện tha hương, và chuyện
đời người. Câu thơ Tiếng chim vườn cũ mùa trăng quê người tràn ngập âm
thanh và hình ảnh lồng trong không gian của quá khứ; và câu thơ biển
xanh và sóng, núi đồi và em, cho tôi thấy rằng nhà thơ sống kiếp tha hương
không thể tách rời hình ảnh người thương ra khỏi thiên nhiên.
Viết về thơ là một hành động mạo hiểm
bởi vì tôi là “người ngoại đạo”; tuy nhiên, mạo hiểm có sức quyến rũ của nó.
Rào trước đón sau để xin tác giả và độc giả tha cho cái mạo muội
của tôi. Nhờ vào rừng lạ tôi hái được vài đóa hoa lạ. Ngoài cái mốc
thời gian mười năm tôi thấy biểu tượng “mây” được nhà thơ Phạm Cao Hoàng
dùng suốt chiều dài tập thơ. Hy vọng tôi sẽ có dịp giúp vui độc giả về biểu
tượng mây trong thơ Phạm Cao Hoàng ở một bài viết khác. Để chấm
dứt xin mời bạn đọc bốn câu thơ trong bài Trước Khi Rời Việt Nam được viết
năm 1999. Qua bốn câu thơ này độc giả sẽ thấy nhan đề của
tác phẩm.
bữa
đó con về thăm Phú Thứ
gặp
lại mùi hương của ruộng đồng
gặp
lại những năm và tháng cũ
mây
khói quê nhà nhẹ bước chân.
Nguyễn Thị Hải Hà
2011
2 9