Trần Huiền Ân
Cọp
lo phần cọp, người lo phần người. Dân làng tôi xưa nay vẫn nói như vậy.
Làng tôi tên nôm na là làng Đá, thuộc vùng
cao nguyên nhưng không giống mấy làng ở ngay trung tâm. Các nơi kia như làng Trại,
làng Gò... đất trân màu nâu sậm, những trảng gò rộng mênh mông, rải rác những
chòm cây, xen lẫn nhau nào sim, mua, nào so đũa, chân bầu, và rải rác những tảng
đá ong lớn bằng bộ phản bị gió mưa đục khoét nhiều hang hốc lỗ chỗ. Đó là đất
nước, quê hương của lũ chiền chiện sáng chiều ríu rít tung bay.
Làng tôi nằm dưới trũng thấp, có đủ ruộng, vườn
và thổ. Con đường ra hướng bắc cứ thoai thoải đi lên, lên mãi. Hai bên đường là
rừng cấm, già cỗi thâm nghiêm, cây xanh tàn dày bốn mùa che khuất ánh nắng, che
khuất cả những lối mòn cọp đi. Mỗi khi có việc phải vào rừng cấm, dân làng tôi
biết rằng đang bước vào thế giới của chúa sơn lâm, cọp beo quanh quẩn đâu đây,
cũng đang nín thở như người để khỏi nhận ra nhau nhưng vẫn nghe được hơi hướm của
nhau. Những giây phút ấy sự im lặng hoàn toàn chế ngự, không một tiếng chim kêu
thú chạy, thậm chí như gió cũng ngưng thổi khiến đầu óc ta căng thẳng đến tột độ,
không ai muốn nán lại lâu mặc dù trong rừng cấm thật mát mẻ dễ chịu, nhiều khi
mát đến lạnh người.
Sở dĩ làng tôi mang tên làng Đá vì có nhiều dốc
đá. Một đoạn của con đường nói trên, từ đầu dốc Đá Mài đến chân dốc Đá Trắng
hai bên không phải rừng già mà toàn tranh đế. Về đêm chỗ trảng này rất nhiều
sương. Mặt trời vừa lặn sương đã phủ xuống ướt đẫm cỏ cây, mặt trời mọc độ một
đòn gánh sương mới hết. Khi sương chưa tan ta lội vào tranh đế sẽ bị cắt cứa ngứa
ngáy khó chịu.
Cọp beo cũng vậy. Người ta nói cọp sợ ướt
lông. Thành ra đây là đoạn đường người và cọp đi chung. Tự thuở qui dân lập ấp
người và thú sống gần nhau đã có sự phân định thời khắc rõ ràng. Người đi ban
ngày từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn. Cọp đi ban đêm từ lúc mặt trời lặn
đến lúc mặt trời mọc hôm sau.
Nhờ vậy hai bên rất ít khi gặp, chỉ thỉnh thoảng,
hi hữu, vì một lý do nào đó cọp đi muộn hoặc người đi sớm. Nếu ngược chiều, cọp
thấy trước lập tức phóng vào rừng. Nếu cùng chiều, người đi sau thấy trước thì
ho hay đằng hắng một tiếng ra hiệu, cọp không quay đầu lại được cũng lập tức
phóng vào rừng. Cần đi ban đêm người phải giơ cao đuốc sáng, nói chuyện rổn rảng.
Ai đã quen núi rừng đều biết, một tiếng xào rồi một tiếng rắc nhẹ, sau đó hoàn
toàn im lặng thì chính là cọp. Một tiếng xào rồi nhiều tiếng rắc, nặng nhẹ
không đều, là một con thú khác.
Trang lứa chúng tôi ở làng Đá nam nữ có bảy đứa,
từ thời niên thiếu đã nhiều lần đi trên đường này. Không biết tự lúc nào, dần dần
chúng tôi thuộc lòng từng đặc điểm, mọi dấu vết của con đường, chỗ kia có tảng
đá trồi lên, chỗ nọ có rễ cây cổ thụ nhô ra, còn bao lâu nữa thì đến cây da đôi
nghỉ chân, bao lâu nữa thì đến chòm bảy thưa lủng lẳng trên ngọn những trái
chín mở ra hai kháp như chiếc hộp lót nhung đỏ. Không biết tự lúc nào chúng tôi
quen nhìn những bãi phân cọp, có khi chủ nó mới vừa phóng uế, tức là vừa đi qua
trước đó không lâu. Thật sự chúng tôi thấy sợ sợ mà cố giấu nén nỗi sợ. Trong bọn,
Trực lớn tuổi hơn, dáng người đẫm thấp, chắc chắn, nước da hơi ngăm. Trực vốn
con nhà nghèo, làm con nuôi cho một gia đình khá giả có học, cái tên xấu xí cũ
được đổi thành Lê Trung Trực. Những trải nghiệm của thời gian cùng cha mẹ anh
em vất vả, cộng với lối giáo dục nho phong được tiếp nhận từ nghĩa phụ khiến Trực
sớm tỏ ra trưởng thành trong suy nghĩ cũng như cách nói năng. Chúng tôi không
coi Trực là vai anh nhưng dành cho Trực lòng yêu mến lẫn kính nể, tin cậy như một
người anh. Nghe Trực nói: “Ổng đi chuyện ổng, mình đi chuyện mình, không ai chọc
ghẹo ai thì không sao hết”, đứa nào cũng bớt phần lo ngại.
Một bữa nọ, nhà chiêm tinh nổi tiếng Trương
Phước Kỷ ghé lại làng Đá, bảo rằng Trực có cung mạng hợp với thiên nhiên hoang
dã, cây rừng đá núi, thượng cầm hạ thú không chịu khuất cũng chịu nhường. Chúng
tôi tin theo và cố tìm những sự việc trong thực tế để chứng minh lời thầy là
đúng. Chặt cây bao giờ Trực cũng có cây tốt, hái trái luôn có trái ngon, rập
chim nhử thú câu cá đều giỏi. Từ đó chúng tôi đoán định sau này Trực sẽ giữ vai
trò chủ làng như cụ Phụng Tám, mỗi khi đi đâu có Trực chúng tôi thấy yên tâm
hơn.
Người dân miền núi gọi cọp beo là ông và tùy
theo sắc lông đặt thành tên: ông gấm nhỏ hơn, thân hình nhiều chấm lốm đốm như
thêu hoa; ông vằn tàu cau lớn hơn, lưng màu hung hung, dần dần ngả vàng xuống bụng
màu trắng, trên cái nền ấy có những vệt đen bằng chiếc lá cau; lớn nhất là ông
vằn vắt khăn, những vệt đen bằng chiếc khăn lông đàn ông quấn cổ vắt vai.
Năm ấy chúa rừng là một ông vằn tàu cau đuôi
thật dài, dáng vẻ đĩnh đạc, nhưng trên đường đi buổi sáng thường trễ muộn, buổi
chiều thường sớm vội, khác với qui ước ngầm giữa người và cọp, chẳng hiểu ai đã
đặt ra, đặt bao giờ hay chỉ là suy nghĩ, tưởng tượng rồi cho là thật. Nhiều người
đã gặp ông vằn tàu cau, có khi đối diện hơi xa đã kịp nhận thấy đôi mắt ông đỏ
ngầu sáng quắc. Tuy vậy người dân làng Đá vẫn nói: “Đường thì đi chung mà công
chuyện thì lo riêng, ai có phần nấy, mắc mớ chi đâu!”.
Mùa hè năm 1952, một cán bộ huyện về tỉnh nộp
thuế. Tiền tín phiếu chứa đầy căng trong hai bao chỉ xanh. Ông ta qua làng Đá
thấy còn sớm nên cố đi thêm ra làng Trại và đến chân dốc Đá Trắng lúc mặt trời
sắp lặn, chạm trên vai núi. Vừa xuống ngựa dắt lên dốc, ông ta chợt thấy một
con cọp lớn đang cúi đầu uống nước nơi giếng nhỏ bên đường.
Giếng này đôi khi người đi đường khát mệt
cũng dùng, mỗi lần uống người ta vét thêm một chút, nhờ vậy giếng tuy cạn mà
không bao giờ khô. Con cọp đó là ông vằn tàu cau. Người cán bộ kịp nhớ “cẩu kỵ
thổ, hổ kỵ thạch”, lượm một hòn đá cầm giơ lên, ông vằn tàu cau nhẹ nhàng lủi
vào bụi rậm. Người cán bộ chưa hiểu hết câu ấy, hổ kỵ thạch là khi con người
chưa buông rời vũ khí, đáng lẽ vẫn giữ nguyên vị thế cầm hòn đá coi như sẵn
sàng thì ông ta liền ném theo con cọp rồi gấp gáp kéo ngựa đến đầu dốc, lên
yên.
Ông vằn tàu cau từ bìa rừng phía sau phóng tới,
bấu vào vai, cắn vào cổ người cán bộ. Con ngựa tung một cú đá hậu, hai bao bạc
tín phiếu rớt xuống. Người cán bộ sau phút hốt hoảng chưa thấy đau đớn, còn đủ
sức nâng hai bao bạc lên, cỡi ngựa chạy ra làng Trại hô hoán. Bà con hái thuốc
dấu đắp cho ông ta, sáng hôm sau cáng xuống bệnh viện tỉnh, tại đây ông ta tắt
thở.
Dân làng Đá họp lại bàn bạc. Đông đảo nghĩ rằng
ông vằn tàu cau đã vi phạm điều giao ước thầm lặng tự đời xưa giữa người và cọp,
dẫu có một đoạn đường phải đi chung nhưng ai lo phần nấy. Một số bào chữa rằng
khi ném đá vào chúa sơn lâm, con người đã ra tay trước. Hành động của ông vằn
tàu cau chỉ là lời cảnh báo, cú đá hậu của con ngựa và sức nặng của hai bao bạc
tín phiếu rơi xuống không đáng kể, nếu cố ý ông vằn tàu cau đã dễ dàng xé xác cả
người và con ngựa. Cuối cùng, ý kiến quyết định của cụ Phụng Tám là dẫu sao thì
một con người đã chết dưới móng vuốt cọp, không thể tha thứ, mạng phải đền mạng,
mười mạng cọp trả một mạng người.
Sáng hôm sau, trai tráng làng chặt cây, bứt
mây, khiêng đá, dựng năm chiếc cũi nhử dọc đường. Cũi hình chữ nhật, rào bằng
cây săn cỡ bắp chân, bắp vế chôn sâu xuống đất, có hai ngăn, ngăn hẹp cột một
con chó suốt đêm kêu la, ngăn rộng bên ngoài một cánh cửa chắc bằng ván, cọp
vào là cửa sập xuống, bên trên gác cây chất nhiều tảng đá lớn. Ngay đêm ấy đến
hai con beo gấm sa bẫy.
Người ta dùng sợi dây mây thắt thòng lọng,
thò vào cũi siết cổ giết chết ác thú. Cách giết này nhanh hơn, có hiệu quả hơn,
nếu dùng lưỡi nhọn đâm nó sẽ chống cự, vẫy vùng, bộ da không còn nguyên vẹn, có
khi bẻ gãy giáo mác, ở nông thôn bảo rằng cọp beo chỉ sợ “ông thần vòng” mà
thôi. Suốt tuần lễ làng Đá diệt tám con beo gấm lớn nhỏ. Mọi người hoan hỉ
nhưng cụ Phụng Tám chưa bằng lòng.
Nửa tháng tiếp theo không thấy động tịnh gì
và sau đó bắt được một con cọp cái thật lớn. Nhiều người cho đây là ông vằn tàu
cau, nhưng cụ Phụng Tám nói chưa phải, chỉ là ông cái, còn ông đực nữa, cụ tiên
liệu nhiều cách trả thù của ông vằn tàu cau đực, dặn dò tất cả phải đề phòng.
Các cũi nhử được sửa lại chắc chắn hơn, có
đêm nhốt một con bò nghé, nhưng ông vằn tàu cau không thèm đếm xỉa, ban ngày chặn
bắt trâu bò lúc thả ăn làm bọn trẻ chăn sợ quá không dám lùa ra giồng xa, buổi
chiều đã lẩn khuất ở chân đồi, ban đêm vào tận đầu làng, tiếng gầm vang động
ghê rợn khiến dân làng ăn ngủ không yên. Những ngày này mọi người nơm nớp lo sợ,
không ai dám đi lẻ, ra rẫy phải năm bảy người, bọn chúng tôi đành phải tạm xa
con đường quen thuộc.
Trưa hôm ấy, ông vằn tàu cau hạ một con trâu
cái tơ vừa lớn của bà Chủ Hai ngay bờ ruộng gần xóm, mặc dù con trâu đực cầm bầy
chạy theo húc đuổi, con mồi vẫn bị tha đi. Biết thói thường của loài cọp không
bao giờ bỏ miếng ăn nửa chừng, cụ Phụng Tám cho kéo nửa con trâu tơ đến chỗ trống
trải, cắt người canh giữ, rồi dắt theo Trực, tức tốc ra làng Gò, phía ngoài
làng Trại, gặp ông Cửu Mười.
Ông Cửu Mười là người chuyên gài cọp bằng bẫy
cần, vóc dáng tầm thước, râu quai nón, lông mày rậm, đôi mắt luôn mở lớn. Dư luận
bảo rằng tướng tinh của ông khiến muông thú đều sợ, cọp beo đánh hơi biết ông vội
vàng lảng tránh. Những chiếc bẫy của ông có một ma lực kêu gọi cọp đến để tìm
cái chết.
Gài bẫy cọp tốt nhất là chọn chỗ có một cây sống
làm cần, người đánh sợi thòng lọng bằng nhợ gai, gọi là sợi đỏi, phải có tuổi
cao đức lớn sợi đỏi mới không giãn, không bị đứt vì lỡ con cọp đã mắc bẫy mà vuột
sổ thì kết quả nguy hại không sao lường được. Sợi đỏi đã một lần dính cọp càng
tốt, hồn con cọp chết sẽ xui khiến kêu gọi con cọp sống thế chỗ. Ông vằn tàu
cau khôn ngoan nhưng chắc chắn do kiêu căng, khinh địch nên năm lần bảy lượt
quanh quẩn ngửi nhìn, bỏ đi, cuối cùng quay lại.
Chiếc bẫy được ngụy trang rất khéo léo, không
có gì đáng nghi ngờ, ông vằn tàu cau thò chân trước vào khối thịt thăm dò. Chỉ
cần một tích tắc ấy, cây máy rơi xuống, cây cần bật lên, một chân ông bị siết
chặt. Ông cố sức vùng vẫy, chạy ngược chạy xuôi gầm gừ, cố sức cắn táp nhưng sợi
đỏi được chiếc cối giã đục thủng đáy che chở, ông chỉ cắn táp làm sứt mẻ chung
quanh vành tai cối. Phía ngoài chân cần có đóng sẵn một hàng cừ và một sợi đỏi
khác cũng đã buộc sẵn vào sợi đỏi đang siết tay con cọp.
Bây giờ đông đảo dân làng gõ mõ khua chiêng
hô hoán la ó thị uy làm con cọp mất tinh thần, tất cả trai tráng cùng ra sức
kéo nó áp sát vào hàng cừ. Ông Cửu Mười nhường cho cụ Phụng Tám việc đưa thần
vòng qua khe cừ kết liễu cuộc sống của ông vằn tàu cau. Vị thủ lĩnh ác thú tận
lực giãy giụa nhưng toàn thân bị ép vào hàng cừ, bốn chân hơ hỏng ngoài không
khí chẳng bấu được vào đâu, cổ bị sợi mây rắc siết chặt, giương đôi mắt căm hờn
nhìn vị thủ lĩnh dân chúng làng Đá, trong đó như có ẩn niềm hối hận sơ hở, rùng
mình mạnh một cái rồi ngoẹo đầu tắt thở.
Sau buổi ấy, trên đoạn đường giữa hai con dốc
không thấy phân cọp rải rác. Bọn chúng tôi lại cùng nhau đi về thường xuyên,
lúc tụ họp gặp gỡ lại thường đem chuyện cọp nghe từ người lớn kể với nhau.
Rồi một buổi sáng, đang thong thả trên đường,
vui vẻ chuyện trò, Trực đằng hắng lớn và phác tay ra hiệu cho chúng tôi dừng bước.
Vài đứa chưa kịp thấy gì. Trực nói: “Một ông vằn vắt khăn, còn nhỏ”. Từ đó, thỉnh
thoảng lại thấy phân cọp dọc đường, nhiều đứa trong chúng tôi cảm nhận có một
điều gì đó lơ lửng, một chuyện rình rập, một sự lo lắng, cầu mong đừng xảy ra
những rủi ro, nhưng Trực nói: “Không sao đâu”.
Trực giải thích theo lời cụ Phụng Tám: Ông vằn
vắt khăn này còn nhỏ, không bắt người, thường thường đang sức tuổi cường tráng
cọp cũng không bắt người. Chỉ những ông cọp già, cọp ba chân mới bắt người. Đó
là những ông cọp đã thành tinh hoặc có thù hận gì, chẳng hạn do con người làm bị
thương què vẹo. Một lý do nữa là cọp già không còn đủ sức lực săn đuổi các loài
thú khác mạnh mẽ hoặc chạy nhảy lanh lẹ, cọp già biết rõ con người là một động
vật yếu ớt không có nanh vuốt chống cự, bắt người dễ hơn, còn chuyện mỗi lần ăn
thịt một người cọp cào lên tai một vạch là chuyện nói lề.
Theo ngày tháng chúng tôi bước vào tuổi trưởng
thành, hiểu rằng từ nay có một ranh giới rõ ràng giữa bốn đứa con trai với ba đứa
con gái, vẫn thương yêu thân mật nhưng không còn được phép dễ dãi. Sự đụng chạm
gần gũi trong thời gian qua đến lúc mặc nhiên trở thành cấm kỵ. Về sau, không
ít người đặt câu hỏi sao trong chúng tôi chẳng có một đôi nào nên duyên chồng vợ?
Lúc ấy chúng tôi mới chợt nhớ, mỉm cười vì thật
lòng chúng tôi không nghĩ đến. Có lẽ vì bốn chàng mà ba nàng thì cũng khó, ai lại
để một bạn chịu cảnh lẻ loi, kết hôn với người xa lạ. Một đứa còn bảo: Bạn bè
ai lại cưới nhau, như vậy cái tình cảm chung sẽ ít nhiều sứt mẻ, đâu còn trọn vẹn.
Cũng có thể nói tình bạn của chúng tôi đã vượt lên cao làm quên lãng cả tình
yêu chăng?
Lần này tôi trở về làng Đá đúng 50 năm kể từ
buổi chúng tôi như chim chóc tan đàn, mỗi người một nơi. 50 năm, con số to lớn
và tròn trịa ấy cứ ám ảnh khiến lòng tôi thêm thương mến làng xóm, bạn bè và
thương mến chính mình.
Hồi đó tôi chưa tròn 20, nhỏ hơn các bạn một
vài ba tuổi. Ba bạn gái đều lấy chồng xa, mặc áo hồng đến xứ người, nhận quê
người làm quê ta. Ba bạn trai kia, một người muốn thoát khỏi cảnh ruộng đồng
lên huyện lỵ tìm việc, hai người đúng tuổi lên đường nhập ngũ. Tôi nhận được sự
vụ lệnh tuyển dụng vào ngạch giáo chức, nhiệm sở là một nơi ngoài tỉnh, địa
danh nghe lạ hoắc. Tôi cố nhắn các bạn và có lẽ linh tính báo trước đây là cuộc
gặp gỡ cuối cùng, khó mong lặp lại nên tất cả đều sốt sắng trở về.
Thanh niên miền Trung hồi ấy hiền như cục đất,
uống một hớp bia đã thấy nồng nàn lên mũi. Chúng tôi thức trọn đêm, uống được
hai chai bia Royal 65 hiệu con cọp, bên dưới có hình trái thơm, coi là loại
ngon hơn. Mấy người con gái má hồng lên, môi đỏ lên như thoa son đánh phấn. Ba
năm sau, chiến tranh lan rộng, làng Đá bị thiêu rụi hoàn toàn, bà con tản cư hết.
Chúng tôi không còn làng quê và lạc xa nhau.
Sau 1975 chỉ một mình Trực đưa vợ con hồi
hương. Chúng tôi mỗi đứa có về làng, ở lại nhà Trực, ước mong có một lần gặp đủ,
nhưng chưa có lần nào và mãi mãi sẽ không có. Tôi hỏi Trực nhiều điều, tất
nhiên không thể thiếu chuyện cọp beo.
Làng Đá bây giờ rất hiếm hoi chuyện cọp beo. Ở
vùng cao mà không có chuyện cọp beo, đi đường không nhìn thấy phân cọp rơi rắc
thì thiếu mất một phần phong vị sơn lâm. Đám trẻ gọi Trực là chú Ba, tiếng nói
của chú Ba rất có giá trị trong cộng đồng. Tiếc rằng cái chơn mạng có tướng
tinh của chú Ba rơi vào buổi cuối mùa, không còn dịp thi thố sự đối trọng với
chúa sơn lâm như các vị lớp trước: cụ Phụng Tám, ông Cửu Mười.
Bây giờ làng Đá là thôn 2, dời lên hai bên đường
quan báo cũ, nhà cửa xây mới theo từng lô san sát, trông khác lạ hẳn. Xưa kia
nhà cửa cất theo vườn, theo thổ, nhìn xuống những dây ruộng chạy lòng vòng.
Tháng ba, tháng tám lúa chín vàng đồng, chim dồng dộc treo ổ toòng teng trên ngọn
tre, sà xuống bay lượn.
Xóm Vườn trồng nhiều cau, giếng nước nằm
trong vườn cau. Xóm Giữa nằm cạnh gò Cây Sộp là đỉnh cao của làng, có trường sơ
học. Xóm Lẫm dáng vẻ trầm lặng, không khí hơi tối dưới bóng những cổ thụ ven đường
trước cổng lẫm. Tôi yêu thích cả khung cảnh tổng quan ấy với mối giao tình bà
con làng xóm thân mật đậm đà, nghĩ rằng đã là làng thì phải có xóm, không có
xóm không còn là làng nữa, cái tên “thôn 2” nghe thật vô cảm.
Trực qua đời đột ngột, chỉ có tôi và một người
bạn gái kịp về dự lễ tang. Buổi sáng hôm ấy Trực đã ngã xuống nơi đám gò thoáng
rộng, trút hơi thở cuối cùng bên những cụm cỏ tai bèo tròn trĩnh bé nhỏ, gió
nam tháng bảy bồng bềnh trên ngọn rừng chồi, không có vợ con bên cạnh. Nơi yên
nghỉ cuối cùng của Trực là đám đất Cây Dâu, phía sau nhà cũ của anh.
Khi mọi người về hết, tôi và người bạn gái
còn ngồi lại bên nấm mộ Trực, im lặng, chìm đắm trong dĩ vãng, thấy thương xót
vô cùng cái làng Đá bé nhỏ ngày nào với mấy xóm bé nhỏ quây quần, thương xót lũ
chúng tôi thời từ thơ ấu đến trưởng thành. 50 năm, suốt một quãng thời gian dài
với nhiều khắc nghiệt, bọn chúng tôi chỉ mất mát hao hụt chứ không hề giàu có
thêm. Chúng tôi cũng muốn bày tỏ một chút giận và cũng muốn trách Trực là ỷ tài
ỷ sức, ham công tiếc việc, cái chết vội vàng của anh gây ảnh hưởng quá lớn
trong sáu đứa còn lại. Vĩnh viễn không bao giờ còn có một đêm gặp gỡ như 50 năm
trước.
Một đêm như thế bây giờ rất cần. Ba bạn gái,
hai người đã thành quả phụ, một người còn lận đận trong Nam. Với riêng tôi, bao
giờ Trực cũng chịu khó lắng nghe, cả chuyện tốt, chuyện xấu, cả những ý nghĩ
trong sáng và đen tối, để cuối cùng có lời khuyên giải mộc mạc chân thành. Từ
nay tôi không còn nói với được ai, đúng như lời người xưa “Chung Kỳ ký một Bá
Nha tuyệt huyền”.
Trên đường về thành phố bằng xe gắn máy, dốc
Đá Mài hiện tại chỉ là một khúc quanh thấp, đến chỗ hồi trước là cây da đôi,
người bạn gái bảo dừng lại. Cây da đã chết, con đường đã tráng nhựa, không còn
dấu phân cọp, nơi gốc da không còn những tảng đá chúng tôi từng dùng than, dùng
phấn vẽ bàn cờ, bày quân tướng bằng sỏi sạn, xúm xít so tài cao thấp.
Ngồi bệt xuống lề đường tôi thuật lại lời Trực,
lúc mới hồi hương một buổi chiều vô tới đây, Trực thấy ông vằn vắt khăn lộ mặt
ra đường, liền đằng hắng lên tiếng: “Mặt trời chưa lặn mà ông!”, ngụ ý nhắc rằng
vẫn còn giờ khắc của người, hai bên nhìn nhau một chặp, ông vằn vắt khăn cúi xuống,
trụt lui. Theo ý Trực thì đây chính là ông vằn vắt khăn chúng tôi có thấy lúc cả
người và cọp đều còn trong tuổi nhỏ.
Người bạn gái khẽ reo lên vui mừng. Tôi hiểu
điều bạn đang nghĩ trong lòng: Vậy là Trực đã tái ngộ với ông vằn vắt khăn, chỉ
có một lần nhưng có còn hơn không, một còn hơn không, ít nhất người chú Ba của
làng Đá hôm nay và con cọp đầu đàn hôm nay cũng đã tương kiến để rồi ai lo phần
nấy.
TRẦN HUIẾN ÂN