MỤC LỤC
Tập truyện này chỉ có 4 truyện ngắn.
Tất cả đều là những câu chuyện thật
(True stories).
Mỗi người chia nhau một chút khổ
Đã ba năm mình không có Tết
Mơ cùng tôi giấc mơ Đà Lạt
Về chốn cũ
MỖI NGƯỜI CHIA NHAU
MỘT CHÚT KHỔ
1.
Những ngày đầu tháng 5.1975 Sài
Gòn lên cơn sốt thuốc tây và xe đạp. Thiên hạ đổ xô đi mua thuốc tây và xe đạp
vì có tin đồn rằng tiền miền nam sẽ không còn giá trị và hai mặt hàng này sẽ
trở nên khan hiếm trong những ngày sắp tới. Giá thuốc tây và xe đạp tăng vùn
vụt nhưng người mua vẫn cứ tranh nhau mua.
Trong
gia đình tôi, anh Bảy vốn là người nhạy bén với những biến động kinh tế theo
kiểu này nên ngay từ lúc bắt đầu cơn sốt anh mua một chiếc xe đạp do Nhật sản
xuất, sau đó anh tìm mua các loại thuốc tây thường dùng.
Sáng
hôm ấy, anh Bảy tiếp tục đi mua thuốc tây rất sớm. Ở nhà chẳng biết làm gì, tôi
lang thang ra chỗ đường Lê Văn Duyệt tìm một quán cóc để uống một ly cà phê sáng.
Khi đi ngang qua tiệm thuốc tây, tôi thoáng thấy anh Bảy trong
đó.
Tôi
bước vào tiệm thuốc tây.
-
Xong chưa? Đi uống cà phê với em.
Anh
Bảy quay lại, thay vì trả lời tôi, anh nhìn ra ngoài đường, mặt biến sắc, hốt
hoảng, lắp bắp:
-
Chiếc xe đạp. Chiếc xe đạp mới mua. Đứa nào lấy rồi. Anh mới vừa bước vào đây
thôi mà.
Cạnh
tiệm thuốc tây có một con hẻm nhỏ. Tôi phản ứng rất nhanh:
- Chắc nó đi chưa xa. Em đuổi
theo con hẻm này, còn anh đuổi theo hướng đường Lê Văn Duyệt.
Nói xong, tôi chạy vào con hẻm. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh như bữa đó. Cứ lao
về phía trước. Không thấy gì cả. Được khoảng 200 mét thì thấm mệt. Tôi bắt đầu
giảm tốc độ, chạy chậm hơn. Vừa lúc ấy một bé trai khoảng hơn 10 tuổi, dáng vẻ
lanh lợi, đang đứng trước cổng nhà, hỏi:
-
Có chuyện gì vậy chú?
Tôi
dừng lại:
-
Cháu có thấy ai đi một chiếc xe đạp mới ngang qua đây không?
-
Xe màu gì vậy chú?
-
Màu đỏ.
Đôi
mắt cậu bé sáng lên:
-
Có. Cháu thấy thằng Thảo vừa đi chiếc xe đạp màu đỏ ngang qua đây.
Tôi
thoáng thấy một tia hy vọng:
-
Cháu này. Hồi nào tới giờ thằng Thảo có xe đạp không?
-
Không đâu chú. Nó thường chơi với bọn cháu, cháu biết rõ mà. Nó làm gì có
xe đạp.
-
Cháu biết nhà nó ở đâu không?
-
Biết chứ chú, ở gần đường xe lửa phía sau ga Hòa Hưng.
-
Cháu có thể đưa chú đến nhà thằng Thảo không?
-
Được mà chú. Cháu sẽ đưa chú đến nhà thằng Thảo.
Trên
đường đi, tôi hỏi:
-
Cháu tên gì?
-
Cháu tên Thắng.
-
Cháu học lớp mấy?
-
Cháu học lớp năm.
-
Thằng Thảo học lớp mấy?
-
Nó lớn hơn cháu hai tuổi nhưng nghỉ học lâu rồi. Nhà nó nghèo lắm. Cha nó đi
lính chết trận. Nó phải nghỉ học theo mẹ đi lượm ve chai để bán.
-
Trước giờ nó có thường ăn cắp không?
-
Không đâu chú. Nó chơi thân với cháu, cháu biết rõ mà. Nó rất đàng hoàng. Chú
này, lát nữa tới nhà thằng Thảo chú đừng vào. Mẹ nó sẽ đánh nó nếu biết nó ăn
cắp. Cháu sẽ vào gọi nó ra gặp chú.
Thắng
đưa tôi đi thật xa, dọc theo đường rầy xe lửa, rồi chỉ vào một căn nhà nhỏ tồi
tàn, cũ kỹ, mái tôn, vách ván.
-
Nhà thằng Thảo đó chú. Chú đứng né vào chỗ lùm cây kia chờ cháu.
Một
lát sau Thắng trở ra, chạy nhanh đến chỗ tôi.
- Nó không có ở nhà. Mẹ nó nói nó đi từ sáng sớm đến giờ chưa về.
- Tối nay chú trở lại chỗ này, cháu cố gắng tìm thằng Thảo để chú gặp.
Được không?
- Thôi chú. Biết giờ nào nó mới về. Chú cứ để đó cháu tìm nó rồi đưa nó
lên phường gặp chú. Cháu biết chú là “cách mạng đang làm trên phường” mà.
Câu
nói của Thắng làm tôi ngớ ra vì bất ngờ. Tôi là giáo chức trong chính quyền cũ,
từ miền trung di tản vào đây, có biết trụ sở phường nằm ở chỗ nào đâu, bỗng
dưng cậu bé này lại gọi tôi là “cách mạng đang làm trên phường”.
Tôi
hỏi Thắng:
-
Sao cháu biết chú là “cách mạng đang làm trên phường”?
-
Chiều hôm qua cháu theo mấy thằng bạn chơi đá banh ở trên phường. Cháu thấy chú
ở trong đó.
Như
vậy là Thắng đã lầm tôi với một người nào đó trên phường. Tuy nhiên, tôi không
giải thích.
-
Thắng này, nếu cháu tìm được thằng Thảo, cháu đừng đưa nó lên phường, mà đưa nó
đến nhà chú vào buổi tối. Được không?
-
Phải đưa nó lên phường nó mới sợ chú ơi!
-
Đừng cháu. Đừng làm nó sợ. Cứ đưa nó đến nhà chú là được rồi. Nhà chú cũng ở
gần đây thôi.
Tôi
đưa Thắng địa chỉ chỗ tôi và mấy anh em trong gia đình đang ở nhờ và hỏi Thắng:
-
Cháu biết địa chỉ này không?
-
Biết chứ chú. Dễ mà. Trong xóm này, hẻm nào cháu cũng biết mà.
2.
Về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho mấy
ông anh nghe. Nghe chuyện tôi là “cách mạng đang làm trên phường” anh
Năm cười ngặt nghẽo:
-
Có khi như vậy cũng hay. Để đó xem sao.
Anh
Bảy bàn với tôi sẽ đi mua một chiếc xe đạp khác. Xem như chiếc kia đã mất.
Không mua, vài hôm nữa sẽ chẳng còn xe để mua. Chưa chắc thằng Thảo ăn cắp
chiếc xe đó, và nếu nó ăn cắp thì chuyện lấy lại chiếc xe cũng không phải là dễ
dàng.
Ngay
sáng hôm sau, anh Bảy xuống các cửa hàng bán xe đạp để mua xe như đã bàn. Tuy
nhiên, dự tính bất thành vì giá xe đạp tăng ngất ngưởng; số tiền ít ỏi còn lại
trong túi anh Bảy không đủ để mua chiếc thứ hai.
Buổi
tối, trời rất nóng. Tôi và anh Bảy đang ngồi trước hiên nhà bàn công chuyện cho
ngày mai bỗng nhiên có hai cậu bé dừng trước cổng nhà, ngần ngừ một chút rồi
bước vào.
Trời
hơi tối, chưa kịp nhận ra hai cậu bé này là ai thì một trong hai đứa nói lớn:
-
Cháu đưa thằng Thảo đến gặp chú. Nó lấy chiếc xe của
chú đó chú ơi.
Thì
ra là Thắng. Khi đưa địa chỉ nhà cho Thắng, tôi cũng đưa theo kiểu cầu may,
không nghĩ Thắng sẽ đến.
Tôi
bước ra, nói với Thắng:
-
Cháu giỏi thật. Cám ơn cháu rất nhiều.
Để
cho Thảo không sợ, tôi đến vỗ vai nó:
-
Cháu vào đây chơi, nói chuyện với chú.
Tôi
đưa hai đứa vào hiên nhà, ngồi trên bậc tam cấp. Thảo có khuôn mặt hơi khắc
khổ, tóc khô, nước da ngăm đen. Tôi chưa kịp nói gì thì Thắng lại lên tiếng:
- Cháu tìm được nó chiều nay ở ngoài chợ Hòa Hưng. Cháu nói chú là “cách mạng đang làm trên phường” nên nó sợ lắm.
Nãy
giờ anh Bảy ngồi im nhưng mừng ra mặt. Anh dỗ Thảo:
-
Cháu để chiếc xe đạp ở đâu? Cháu đừng sợ. Sẽ không nhốt
cháu
đâu.
Thắng
chen vào:
-
Nó bán cho ông Bốn thợ mộc rồi.
-
Tiền bán xe cháu để ở đâu?
-
Cháu đã lấy một ít để mua thuốc và đồ ăn cho mẹ cháu. Gần một tuần nay bán ve
chai không ai mua, nhà chẳng còn tiền, mẹ cháu lại bị đau…
Nói
xong, nó lấy một gói nhỏ gói bằng giấy từ trong túi quần soọc đưa cho tôi:
-
Tiền vẫn còn đây. Xin chú tha tội cho cháu.
Tôi
đưa gói tiền cho anh Bảy đếm. Đếm xong, anh Bảy có vẻ không vui.
Anh nói với Thảo:
-
Chú muốn mua lại chiếc xe đạp này. Cháu dẫn chú đi gặp ông Bốn thợ mộc được
không?
Thảo
có vẻ do dự:
-
Cháu không có tiền để trả lại ông Bốn. Chú ơi, cháu không dám gặp ông Bốn đâu.
-
Cháu dẫn chú tới đó, còn mọi việc cứ để chú thương lượng.
-
Mấy chú không nhốt cháu thì biểu cháu làm gì cháu cũng làm. Giờ này chắc ông
Bốn đã đi ngủ.
-
Sáng mai đi được không?
-
Dạ được.
Thắng
và Thảo chào rồi ra về. Tôi đi với hai cậu bé một đoạn, vừa đi vừa hỏi Thảo:
-
Chú trông cháu cũng là người đàng hoàng, sao lại ăn cắp xe đạp?
-
Gần một tuần nay ve chai lượm bao nhiêu cũng có nhưng bán chẳng ai mua. Mẹ cháu
lại bị đau, nhà hết tiền, cháu làm liều kiếm tiền mua thức ăn và mua thuốc cho
mẹ cháu.
-
Cháu tự làm chuyện này hay có ai bày không?
-
Thằng Toán ở cùng xóm bày cháu. Thằng này rất giỏi chuyện ăn cắp. Nó nói theo
kinh nghiệm của nó, sau khi dựng xe đạp, người ta đi thẳng vào trong tiệm, ít
khi quay lưng nhìn lại. Do vậy, mình canh sẵn, họ vừa quay lưng là mình
chớp thật nhanh và chạy đi ngay. Cháu làm theo lời thằng Toán bày.
-
Cháu có biết là ăn cắp thì sẽ bị ở tù không?
-
Cháu không biết, nhưng mẹ cháu thường nói với cháu ăn cắp là không tốt, mai mốt
chết xuống sẽ bị trừng phạt. Cháu đi lượm ve chai với mẹ, thấy đồ đạc người ta
để quanh nhà nhưng không bao giờ cháu lấy. Chú ơi, chú tha tội cho cháu. Cháu
lỡ lần này thôi.
-
Chú sẽ chẳng làm gì cháu đâu. Chú cũng không phải là “cách mạng đang làm
trên phường đâu”.
Tôi
quay sang Thắng:
-
Chắc Thắng lầm chú với người nào trên phường.
Thắng
cười bẽn lẽn:
-
Vậy mà cháu cứ tưởng …. Làm thằng Thảo hết hồn.
Tôi
hỏi Thảo:
-
Nghe nói mẹ cháu bị đau. Mai cho chú ghé thăm mẹ, rồi hẵn đến gặp ông Bốn thợ
mộc. Được không?
Thảo
lắc đầu quầy quậy:
-
Không được đâu chú ơi. Lỡ chú nói với mẹ chuyện cháu làm bậy, mẹ sẽ đánh cháu.
-
Chú sẽ không nói gì hết. Chỉ thăm mẹ thôi.
-
Thôi chú. Cháu sợ lắm.
Tôi
lấy một ít tiền lẻ dúi vào tay Thắng:
-
Cho cháu cái này. Cháu mua cái gì cho Thảo cùng ăn. Chắc nó đang đói. Mai hai
đứa nhớ đến, đưa chú đi gặp ông Bốn thợ mộc.
Thắng
thích chí:
-
Đúng đó chú. Chiều đến giờ thằng Thảo chưa ăn gì. Cháu sẽ mua bánh mì pa-tê.
Mai tụi cháu sẽ đến sớm.
Tôi quay về, nói với anh Bảy:
-
Có thiếu chút ít nhưng dù sao nó cũng trả tiền lại rồi. Đi tìm ông Bốn thợ mộc làm
gì cho mất công?
Anh
Bảy lật qua lật lại gói tiền Thảo đưa, cười buồn:
-
Hồi nãy chưa kịp nói với chú. Đã nghèo còn gặp cái eo. Tiền thằng Thảo đưa chỉ
hơn nửa số tiền anh bỏ ra để mua chiếc xe đạp. Chắc nó bán rẻ. Rẻ người
ta mới mua. Bây giờ chỉ còn cách tìm người mua để lấy lại chiếc xe đạp.
3.
Sáng sớm, vừa mở cửa, Thắng và Thảo đã
ngồi sẵn trước hiên nhà.
-
Các cháu đến sớm vậy?
Thắng
nhanh nhẩu:
-
Thằng Thảo nói với cháu nó rất hối hận. Nó muốn đưa chú đến gặp ông Bốn thợ mộc
ngay để lấy lại chiếc xe. Đêm qua nó chỉ mong trời sáng để sang gặp chú.
-
Chờ chú một chút. Chú vào thay quần áo rồi đi.
Anh
Bảy và tôi theo hai cậu bé đi lòng vòng qua nhiều đường hẻm ở phía ga xe lửa
Hòa Hưng. Mất hơn 20 phút đi bộ mới đến nhà ông Bốn thợ mộc. Căn nhà không đến
nỗi tồi tàn như nhà thằng Thảo nhưng nhìn vào có thể nhận ra ngay nhà của dân
nghèo.
Bốn
thợ mộc trạc 40 tuổi, người hơi thấp, tóc cắt ngắn, khuôn mặt trông có vẻ thật
thà. Đặc biệt, đôi chân của ông hơi khập khiểng. Thấy chúng tôi đi với Thảo và
Thắng, có lẽ ông đoán được chúng tôi là ai. Ông bước ra, mặt hơi ngượng ngùng,
mời chúng tôi vào. Thắng và Thảo cũng vào theo.
Bước
vào nhà, tôi thấy một bé trai và một bé gái khoảng hơn 10 tuổi, nước da tái,
tóc tai bù xù, đang ngồi ăn cháo với cá khô. Nghề ông là thợ mộc, nhưng
nhìn quanh nhà không thấy bàn, tủ, hay đồ đạc gì đáng giá. Tôi có ý quan sát để
xem ông để chiếc xe đạp ở đâu nhưng không thấy.
Anh
Bảy làm ra vẻ thân thiện:
-
Chào anh Bốn. Chị đâu rồi? Sao không ăn sáng với mấy cháu?
-
Bà ấy bệnh và qua đời cách đây hai năm. Tôi gà trống nuôi con.
-
Anh làm nghề thợ mộc lâu chưa?
-
Hơn 10 năm.
-
Trước anh cũng ở trong quân đội?
-
Không. Chân tôi bị tật nên được miễn dịch vì lý do sức khỏe. Từ khi mẹ cháu qua
đời đến giờ, một mình nuôi con, cực khổ quá, có gì không phải mấy anh bỏ qua
cho.
Tôi
trấn an:
-
Không có gì đâu anh Bốn. Thảo nói nó bán chiếc xe đạp cho anh?
Bốn
thợ mộc gật đầu:
-
Nó bán cho tôi trưa hôm qua. Nó đi ngang nhà, hỏi tôi có muốn mua xe không, nó
bán.
-
Anh có biết đó là đồ ăn cắp không?
-
Thật tình tôi không biết. Tôi thiệt
thà, ai nói gì cũng tin. Nó nói đó là xe của nó thì tôi tin là của nó nhưng khi
thấy các anh đến đây tôi mới hiểu ra.
-
Sao anh không mua xe ngoài tiệm, có hóa đơn, có nguồn gốc đàng hoàng?
Bốn
thợ mộc thở dài:
-
Bữa trước tôi có tính mua ngoài tiệm nhưng không đủ tiền.
Anh
Bảy đứng dậy, nhìn quanh, rồi nói:
-
Anh Bốn này. Thằng Thảo đã đưa tiền bán xe cho tôi, bây giờ tôi trả lại anh,
anh cho tôi lấy lại chiếc xe đạp.
Nói
xong, anh Bảy để gói tiền trên bàn.
Bốn
thợ mộc ngồi im một một lúc, khuôn mặt thẫn thờ.
-
Tôi bán lại cho người khác rồi.
Anh
Bảy không tin:
-
Mới trưa hôm qua anh mua của thằng Thảo, bây giờ anh nói anh bán cho người khác
rồi. Sao mà nhanh vậy?
Bốn
thợ mộc chùng giọng:
-
Thấy rẻ thì ham và mua. Mua xong thấy kham không nổi. Gần một tuần nay không đi
làm vì chẳng ai thuê. Nhà hết gạo, hết đồ ăn. Vốn liếng chỉ có chừng đó. Chiều
hôm qua phải bán lại cho một người qua đường, cũng bằng giá tiền đã trả cho
thằng Thảo, không lời lỗ gì. Tôi thật có lỗi với các anh.
Anh
Bảy quay sang nhìn tôi, lộ vẻ thất vọng. Tôi nhìn Bốn thợ mộc. Khuôn mặt chơn
chất hiền hậu thoáng có chút sợ hãi của ông trông thật tội nghiệp. Hai đứa nhỏ
vừa ăn cháo xong, đang dọn chén bát mang ra ngoài sân rửa. Thảo đứng khép nép
trong góc phòng. Thắng đứng bên cạnh, cầm bàn tay Thảo.
Tôi
nói với anh Bảy:
-
Thôi anh Bảy. Tiếc làm gì? Đáng lẽ mình đã chết trong chiến tranh, bây giờ vẫn
còn sống là may lắm rồi. Còn người còn của mà. Anh Bốn đây thì nghèo, mình cũng
khổ, mà mẹ thằng Thảo cũng cơ cực. Thôi thì mỗi người chia nhau một
chút khổ trong lúc khó khăn này./.
1975
Phạm Cao Hoàng
ĐÃ BA NĂM MÌNH KHÔNG CÓ TẾT
1.
Buổi tối, sau khi cho con ngủ,
Hoa nói với
tôi, giọng
ái ngại:
-
Con bé gầy
quá. Nó bị
suy dinh dưỡng. Chắc anh phải kiêm việc
làm thêm để
có tiền
lo cho con.
Việc
gì bây giờ?
Lâu nay
tôi đã nhiều
lần
nghĩ đến
chuyện
này nhưng
chẳng
biết
phải
làm gì. Có dạo,
một
người
quen tốt
bụng
ở
Chi Rông cho tôi mượn miếng đất ruộng để làm. Kinh nghiệm
không có, làm thử một mùa, số lúa thu về
còn ít hơn
số
lúa giống
đã gieo xuống
ruộng.
Người
ê
ẩm
vì không quen công việc đồng áng, mất thời
gian, còn bị
lỗ
vốn,
đành phải
trả
miếng
đất
lại
cho chủ
nhân của
nó. Buôn bán thì không xin được giấy phép. Một số
đồng
nghiệp
dạy
cùng trường
làm thêm bằng
cách sửa
xe đạp,
sửa
giày, sửa
đồng
hồ,
bơm
mực
bút
bi, bơm
quẹt
ga, làm thú y… Còn tôi, vẫn bế tắc.
Tôi
nhìn đứa
con ba tuổi
đang ngây thơ
nằm
ngủ
trên giuờng,
rồi
nhìn Hoa:
-
Lần
này thì anh phải
tìm cho ra việc
để
mà làm. Thấy
con như
thế
này anh xót quá.
Cuối
tuần,
tôi về
Đà Lạt
tìm gặp
Hữu,
một
người
bạn
thân, đang là phóng viên của một tờ báo ở địa phương. Hữu cũng xơ xác như
tôi, nhưng
khi nghe chuyện
tôi muốn
có thêm việc
làm, anh trầm
ngâm suy nghĩ.
Bất
chợt,
Hữu
cười
thật
tươi:
-
Tôi nghĩ ra rồi.
Hình như
anh có một
chiếc
máy ảnh
phải
không?
Tôi
không hiểu
vì sao Hữu
hỏi
tôi như
vậy.
Sau 1975, cuộc
sống
quá khó khăn, tôi phải bán đi nhiều thứ,
nhưng
chiếc
máy ảnh
thì tôi vẫn
còn giữ
lại.
Ngoài chiếc
máy ảnh,
tài sản
của
tôi còn có một
máy đánh chữ,
một
chiếc
xe đạp,
và mấy
chỉ
vàng do bà con tặng hồi đám cưới. Chỉ có vậy thôi. Nhà cửa
không có, đang ở nhờ.
Tôi
nói với
Hữu:
-
Có. Tôi vẫn
còn giữ
chiếc
máy ảnh.
Hữu
vỗ
vai tôi:
-
Yên tâm. Chắc
chắn
có việc
làm. Tôi sẽ
giới
thiệu
anh cho ông Nguyễn Bá Mậu để học nghề chụp ảnh. Học xong, anh sẽ chụp
ảnh
dạo
và ảnh
đám cưới
để
kiếm
thêm tiền.
Tuần
sau anh lên, tôi sẽ đưa anh đến gặp ông ấy.
Tôi
mừng
lắm.
Nghề
này chắc
chắn
phải
hợp
với
tôi hơn
là làm ruộng.
Về
nhà tôi kể
chuyện
cho Hoa nghe và Hoa cũng rất lạc quan với chút ánh sáng đang
lóe lên trong cuộc sống u ám của chúng tôi. Tôi lấy
chiếc
máy ảnh
hiệu
Canon lau chùi cẩn thận, nhủ lòng sẽ cố gắng để vượt qua số phận. Cả thị trấn này, số người
có máy ảnh
chỉ
đếm
trên đầu
hai bàn tay. Rất
ít người
biết
chụp
ảnh.
Muốn
chụp
ảnh
phải
học
cách sử
dụng
máy ảnh.
Ảnh
sẽ
mờ
tịt
nếu
không biết
điều
chỉnh
khoảng
cách, sẽ
trắng
bệt
nếu
thừa
ánh sáng, hoặc
sẽ
đen thui nếu
thiếu
ánh sáng. Tôi đã có dịp đọc qua các sách dạy
chụp
ảnh
nên cũng hiểu
biết
chút ít.
Cuối
tuần
sau đó Hữu
đưa
tôi đến
gặp
nhiếp
ảnh
gia Nguyễn
Bá Mậu.
Từ
lâu tôi đã nghe tiếng ông: một trong những
nhiếp
ảnh
gia nổi
tiếng
ở
miền
nam trước
1975, cùng thời
với
Nguyễn
Cao Đàm, Trần
Cao Lĩnh. Tầm
sư
học
đạo
mà gặp
được
ông thì quả
là gặp
đúng sư
phụ
rồi.
Tôi mang theo chiếc máy ảnh, trong lòng hơi
lo, không biết
ông có sẵn
sàng truyền
nghề
hay không.
Nhà
ông nằm
cuối
dốc
Sông Lô gần
rạp
chiếu
bóng Ngọc
Hiệp
ở
đường
Phan Đình Phùng. Nhà bài trí nghệ thuật, gọn gàng, ngăn nắp.
Trái với
những
lo âu của
tôi, nhiếp
ảnh
gia Nguyễn
Bá Mậu
là một
người
cởi
mở,
vui vẻ,
lịch
sự,
nhanh nhẹn,
và đặc
biệt
ông có cách nói chuyện rất nhẹ nhàng, dễ gây cảm
tình với
người
được
ông tiếp
chuyện.
Sau khi nghe Hữu
giới
thiệu
và nói ý định
của
tôi, ông vui vẻ
nhận
lời:
-
Tưởng
ai chứ
bạn
của
Hữu
thì xem
người
nhà. Mình có thể bắt đầu từ hôm nay.
Rồi
ông nói đùa:
-
Thợ
chụp
hình là ngưới có nhiều quyền lực. Khách hàng của
chú, từ
quan đến
dân, ai cũng phải nghe chú. Chú bảo
người
ta lui ra
sau hay bước tới trước, nhích sang bên phải
hay bên trái là họ răm rắp làm theo. Nhưng
coi chừng
chú bị
đau tim vì chú sẽ gặp rất nhiều người đẹp.
Ngay
sau đó ông hướng dẫn cho tôi những
hiểu
biết
căn bản
về
chiếc
máy ảnh,
cách điều
chỉnh
ánh sáng, khoảng cách, tốc độ,
cách cầm
máy ảnh
sao cho không bị rung, cho phép tôi chụp
thử
vài tấm
ảnh
trong nhà, ngoài trời, vào phòng tối
rửa
ảnh,
dựa
vào đó ông phân tích những lỗi cần phải tránh.
Cứ
cuối
tuần
tôi lại
lên gặp
ông. Ông tiếp
tục
hướng
dẫn
về
bố
cục
một
tấm
ảnh:
phần
không gian trên đầu phải nhiều hơn dưới chân, phần không gian trước
mặt
phải
rộng
hơn
sau lưng,
không được
chụp
cắt
ngang người
ở
đùi, ở
đầu
gối,
ở
cổ
chân, không để
khách hàng đứng phía trước gốc
cây mà phải
đứng
tựa
vào một
bên, người
mập
không mên chụp
gần,
người
ốm
không nên chụp
xa, chụp
thế
nào để
một
người
lùn trông cao hơn trong ảnh… Dạo
trước
tôi cũng thường chụp ảnh cho bạn bè và gia đình, bây giờ,
qua những
gì ông hướng
dẫn,
nhìn lại
thấy
mình mắc
nhiều
lỗi
kỹ
thuật
mà mình
không biết.
Phần
cuối
cùng, ông hướng dẫn tôi chụp ảnh
nghệ
thuật:
chụp hoa,
tĩnh vật,
chụp
silhouette, chụp ảnh chân dung, xóa phông đằng
sau, chụp
người
hoặc
vật
đang di chuyển, chụp ảnh
thể
thao, chụp
ảnh
vào ban đêm… Đây là phần khó nhất, không
học
không thể
biết
cách chụp.
Tôi rất
thích phần
này, tự
nhủ,
nếu
không kiếm
ra tiền
thì ít nhất
cũng có những
hiểu
biết
về
nhiếp
ảnh
để
áp dụng
cho đời
sống
riêng của
mình.
Rồi
tới
ngày sư
phụ
cho tôi xuống
núi. Ông hẹn
gặp
tôi thêm một
lần
nữa ở nhà
ông vào một
buổi
sáng chủ
nhật.Trên
bàn nơi
phòng khách ông đã chuẩn bị sẵn hai ly cà phê, bên cạnh
có một
túi da dùng để
đựng
máy hình. Ông dặn dò tôi về việc
luôn luôn phải
làm vui lòng khách hàng, đừng nóng tính, và khi họ
cần
đến
mình thì cho dù phải đi mười cây số
để
chụp
một
tấm
hình vẫn
cứ
phải
đi.
Tôi
nói:
-
Rất
cám ơn
anh về
sự
tận
tình chỉ
dẫn
lâu nay. Anh vui lòng cho em gửi cái này.
Vừa
nói tôi vừa
đặt
chiếc
nhẫn
một
chỉ
vàng lên bàn với
ý định
gửi
ông chút thù lao.
Ông
khoát tay, không nhận. Tôi nài nỉ thế
nào ông vẫn
từ
chối.
Ông cầm
lấy
chiếc
nhẫn
bỏ
vào cái túi da rồi đưa cho tôi, kèm theo nụ
cười
đôn hậu:
-
Từ
trước
tới
giờ
tôi chưa
lấy
thù lao của
ai về
việc
này. Giúp chú chút kinh nghiệm thôi mà, có gì lớn
lao
đâu. Cuộc
sống
giáo chức
bây giờ
khó khăn lắm.
Chú chịu
khó làm thêm để
có thêm thu nhập.
Có chiếc
túi da này, cũ nhưng còn tốt, tôi tặng
chú để
khi đi làm nghề
cho nó có vẻ
chuyên nghiệp.
Lúc này thứ
gì cũng khan hiếm, muốn mua một
cái túi da như
thế
này,
cho dù có tiền
cũng không mua đâu ra.
Thật
là ngoài sức
tưởng
tượng
của
tôi. Đã không nhận thù lao, lại còn tặng
vật
dụng
hành nghề.
Tôi
đã may mắn
gặp
được
một
con người
tử
tế
và nhân hậu. Tôi đã học được
ở
ông không chỉ
nghề
ảnh
mà cả
cách sống
ở
đời.
Cả thị trấn tôi đang sống chỉ
có hai tiệm
chụp
hình với
số
thợ
hình khoảng
năm người.
Họ
thuộc
nhóm thợ
quốc
doanh, còn tôi thuộc dạng “chụp
hình chui”. Tiền dạy học không đủ sống,
“đói
thì đầu gối
phải bò”. Đầu
gối
tôi bắt
đầu
bò. Tôi nhận
chụp
ảnh
đám cưới
vào những
ngày cuối
tuần.
Dần
dần,
khi đã có chút uy tín, khách hàng tìm đến nhiều hơn. Ngoài giờ dạy,
soạn
bài, chấm
bài, tôi tận
dụng
số
thời
gian còn lại
để
đi chụp
hình. Tôi làm việc bảy ngày một tuần
và hoàn toàn không có thời gian để giải
trí. Làm nhiều
như
vậy
nhưng
cuộc
sống
vẫn
không khá lên được vì thu nhập từ
nghề
hình cũng chỉ
dừng
ở
mức
“có
còn hơn không”.
Một
lần
tôi phải
vào một
xã kinh tế
mới
cách nhà khoảng
10 cây số
để
chụp
hình cho một
gia đình đang cần ảnh gửi cho người thân. Khách hàng yêu cầu
chụp
một
tấm
duy nhất
cho cả
gia đình và tôi phải có mặt vào lúc 6 giờ
sáng. Tôi lấy
làm lạ,
hỏi
tại
sao phải
là 6 giờ
sáng. Khách hàng giải thích: vào giờ
đó mọi
người
trong gia đình đủ mặt; sau 6 giờ người
thì đi làm, con cái thì đi học, có người này thì thiếu
người
kia. Thì ra là vậy.
Đời
sống
vùng kinh tế
mới
rất
khó khăn. Trong tính toán của họ, họ chỉ đủ tiền để chụp một tấm hình thôi. Nhớ
lời
sư
phụ
dặn,
“Khi
họ
cần
đến
mình thì cho dù phải
đi mười cây số
để
chụp một
tấm
hình vẫn cứ
phải đi “. Và tôi làm đúng
theo lời
sư
phụ.
Năm giờ
sáng lọc
cọc
đạp
xe vào chỗ
hẹn.
Đến
nơi,
họ
đã sẵn
sàng với
một
đại
gia đình trên dưới mười người. Trời chưa sáng hẳn, ánh sáng ngoài trời
còn yếu,
chưa
đủ
để
làm cho ảnh
rõ và sắc
nét. Tôi hình dung việc chụp tấm hình này là một
việc
quan trọng
đối
với
họ,
không cho phép chụp hỏng hoặc xấu, do vậy
tôi phải
chụp
đến
ba lần
để
chắc
ăn sẽ
có một
tấm
khá nhất
giao cho họ.
Nào ngờ,
chủ
gia đình nổi
nóng, xài xể tôi một trận:
-
Tôi đã nói chỉ
chụp
một
tấm,
bây giờ
chú chụp
đến
ba tấm,
tôi lấy
tiền
đâu mà trả.
Lỗ
công, lỗ
vốn,
lại
còn bị
xài xể,
tôi hơi
tức
nhưng
không giận
vì chẳng
qua là họ
hiểu
lầm.
Trước
cơn
thịnh
nộ
của
người
chủ
nhà tôi chỉ
biết
chịu
trận.
Đợi
ông dứt
trận
lôi đình tôi mới
ôn tồn
giải
thích. Mấy
ngày sau tôi lại
lọc
cọc
đạp
xe vào giao tấm
hình, vừa
đi vừa
nhủ
lòng, “Xem như làm từ
thiện”. Cũng may tấm
hình khá đẹp,
nếu
không, chưa
biết
chuyện
gì xảy
ra.
Cũng
ở
vùng kinh tế
mới
này,
một
hôm tôi đang chụp ảnh cho một đám cưới
thì hai cậu
du kích xuất
hiện.
Họ
cho người
vào gọi
tôi ra.
Thấy
họ
có mang súng nên tôi hơi sợ. Tôi bước ra, cố gắng nở một nụ cười xã giao.
Một
cậu,
mặt
non choẹt
đáng tuổi
học
trò tôi, hạch
hỏi:
-
Anh có giấy
phép chụp
hình không?
Tôi
vã lã:
-
Khó khăn quá. Làm thêm một chút thôi mà, chưa
kịp
xin giấy
phép.
Được
thể,
cậu
ta càng lên gân:
-
Không có giấy
phép thì không được chụp. Anh mà tiếp tục
chúng tôi sẽ
thu máy ảnh.
Nghe
ba chữ
“thu
máy ảnh” tôi hơi ngán. “Thu
máy ảnh” đồng nghĩa với “thu
cái cần câu cơm”
của
tôi trong lúc này. Tôi vội vàng bỏ máy ảnh
và đèn flash vào trong túi da, lùi ra xa theo phản ứng
tự
nhiên, chưa
biết
phải
tính thế
nào thì cô dâu chú rể bắt đầu năn nì:
-
Mấy
anh thông cảm. Không cho chụp
thì chúng tôi không có ảnh cưới. Một đời
có một
lần
mà không có ảnh
thì biết
làm sao đây.
-
Không có thông cảm gì hết. Đi kiếm thợ
ảnh
khác vào chụp.
-
Làm sao kịp?
Tìm được
người
khác vào tới
đây thì đám cưới xong rồi.
Vừa
lúc ấy
có một
người
đàn ông trạc
30 tuổi
dừng
xe đạp
nơi
chỗ
hai cậu
du kích. Họ
thì thầm
với
nhau một
lúc, sau đó người này bước tới chỗ tôi, nghiêm giọng:
-
Tha cho anh lần này. Lần sau không được
vào đây.
Nói
xong cả
bọn
bỏ
đi.
Sau
lần
đó, tôi không
nhận
chụp
ảnh
đám cưới
cho vùng kinh tế mới này nữa, kiếm các địa bàn khác để “làm
ăn”
Tôi
chỉ
chụp
ảnh,
còn rửa
ảnh
thì không vì không có phòng tối. Chụp xong, tôi phải
mang về
Đà Lạt
đưa
cho các phòng tối trên
đó tráng phim và in ảnh. Khổ nhất là những lần khách cần ảnh
gấp,
đám cưới
hôm nay họ
muốn
lấy
ảnh
vào ngày mai để
kịp
đưa
cho bà con ở
xa về
dự
tiệc
cưới.
Phương
tiện
vận
chuyển
thiếu
thốn,
muốn
mua một
vé xe đò về
Đà Lạt
phải
xếp
hàng chờ
đến
hai ba tiếng
đồng
hồ,
nhiều
khi tới
phiên mình thì hết vé. Có một lần
mua được
vé đi nhưng
không mua được vé về, đành phải đi bộ
trên 30 cây số
để
về
nhà.
Sau
này, gặp
những
trường
hợp
khách cần
ảnh
gấp
như
vậy
tôi đi xe đạp
về
Đà Lạt
cho chắc
ăn. Lượt
đi mất
bốn
tiếng
vì đoạn
lên đèo Prenn không đạp nổi, phải dắt xe đi bộ. Lên tới
nơi,
đến
ngay phòng tối
giao phim, sáng sớm hôm sau trở lại
lấy
ảnh
và đạp
xe trở
về.
Lượt
về
chỉ
mất
một
tiếng
rưỡi
nhưng
rất
nguy hiểm
khi xuống
đèo. Để
chuẩn
bị
cho những
lần
đổ
đèo, tôi
phải
tháo bỏ
hai cái garde-boues, chỉ còn hai bánh xe trơ
trọi,
khoèo một
chân vào chỗ
bánh xe trước để làm giảm tốc độ khi xe xuống đèo. Một
lần
tôi hụt
chân, bổ
nhào xuống
đất,
lăn ra giữa
đường,
chiếc
xe đạp
văng ra xa, còn cặp kính cận may mắn
rớt
vào
vạt
cỏ
bên vệ
đường,
không bể.
Người
tôi chỉ
bị
xây xát nhẹ.
Sau lần đó, tôi bắt đầu sợ. Tôi không nhận chụp những đám cưới cần ảnh gấp như vậy nữa.
Dần
dần,
thợ
“chụp
hình chui” xuất hiện thêm mấy người
nữa.
Sự
xuất
hiện
của
họ
ít nhiều
có ảnh
hưởng
đến
các thợ
hình khác vì số
khách hàng bị
chia bớt
đi. Các thợ
hình quốc
doanh bắt
đầu
tìm cách gây khó khăn. Họ báo cho công an, đề
nghị
công
an cần
phải
dẹp
cái đám “chụp hình chui”
này. Trong số
các thợ
hình quốc
doanh, có một
tay rất
hung hăng, tên là Lung, thường bám sát chúng tôi. Có lần
gặp
tôi, hắn
hù dọa:
-
Tao sẽ
cho bọn
mày dẹp
tiệm.
Tôi
tức
cười
quá, nói luôn:
-
Có tiệm
đâu mà
dẹp.
Mặt
hắn
hầm
hầm:
-
Rồi
bọn
mày sẽ
biết
tay tao.
Gần nhà tôi có một
ngôi chùa. Những
ngày Tết,
rất
đông người
đến
chùa thắp
nhang, lạy
Phật,
xin xăm, cầu
lộc,
cầu
duyên… Đây là nơi “làm ăn”
của
tôi và nhiều
thợ
hình khác vào dịp Tết. Đây cũng là dịp
đám thợ
quốc
doanh và đám “chụp
hình chui” đối mặt với nhau. Vừa chụp
hình cho khách, vừa phải dè chừng đám thợ quốc
doanh xem họ
có gây khó khăn gì cho mình không. Sự cạnh tranh tất nhiên phải
có, không công khai nhưng ngấm ngầm và quyết liệt.
Suốt
những
ngày Tết,
từ
mồng
một
đến
mồng
năm, tôi làm việc không ngơi nghỉ,
mệt
rã người
vì cả
ngày chụp
hình liên tục,
tối
lại
phải
thức
để
phụ
với
phòng tối
làm ảnh.
Hoa thì lúc nào cũng ở bên tôi giúp giao hình cho khách.
Tôi “làm ăn” ở chùa này tổng cộng
ba cái Tết.
Hai cái Tết
đầu
yên ổn,
không có chuyện
gì xảy
ra. Đến
cái Tết
thứ
ba thì gặp
rắc
rối.
Hôm
đó là mồng
ba Tết,
khoảng
giữa
trưa
- giờ
cao điểm
bà con đến
thắp
nhang lạy
Phật,
rải
rác trước
và sau chùa có khoảng 8 thợ chụp hình đang phục
vụ
cho khách. Tôi thuộc nhóm thợ đông khách. Một
vài thợ
ế
ẩm,
khách thưa
thớt.
Tôi đang chụp
ảnh
cho một
gia đình phía sau chùa thì bà Chín - một người làm công quả
thường
xuyên ở
chùa - đi ngang qua chỗ tôi, ghé tai nói nhỏ:
-
Chụp
xong nhóm này, thầy ra đằng sau nhà khách gặp
tôi. Có chuyện
này hơi
gấp,
muốn
nói với
thầy.
Tôi
hơi
ngạc
mhiên, chụp
nhanh cho xong rồi ra đằng sau nhà khách.
Bà
Chín đã chờ
sẵn,
nét mặt
có vẻ
nghiêm trọng:
-
Hồi
nãy có ba thanh niên trông rất du côn bàn kế
hoạch
hành hung thầy.
Thầy
đừng
ra sau chùa vì bọn nó chờ thầy ở đó, giả làm khách chụp
hình, rồi
kiếm
cớ
đánh thầy,
đập
máy ảnh.
Tôi đoán bọn
này là tay chân của mấy anh thợ ế
khách. Từ
giờ
đến
chiều
thầy
chỉ
chụp
trước
chùa. Phía trước chùa lúc nào cũng đông người,
chúng nó không dám làm gì thầy đâu.
Tôi
cám ơn
bà Chín rồi
đi tìm Hoa, kể
cho Hoa nghe mọi
việc
và dặn
Hoa đứng
gần
theo dõi, có dấu
hiệu
gì bất
thường
báo cho tôi biết, còn tôi vẫn tiếp
tục
công việc
của
mình. Một
số
khách
nài nỉ
tôi ra sau chùa chụp ảnh cho họ vì phía ấy
có nhiều
cảnh
đẹp
nhưng
tôi lấy
cớ
không đủ
thời
gian và cứ
bám chặt
phía trước
chùa.
Khoảng
ba giờ
chiều,
Hoa và tôi ghé vào chỗ bóng mát dưới gốc
cây để
nghỉ
ngơi
một
chút. Hoa đang lột mấy trái quít cho tôi ăn đỡ
khát thì có một
nhóm thanh niên tóc dài, áo phanh ngực bước tới. Bọn chúng có ba người.
Đúng là nhóm du côn mà bà Chín đã báo động với tôi. Có lẽ chúng chờ
phía sau chùa quá lâu mà không thấy tôi ra nên tìm đến
đây. Tôi hơi
chột
dạ
nhưng
không
sợ
vì xung quanh tôi vẫn còn rất đông người. Theo phản
ứng
tự
nhiên, tôi vừa
định
cho máy ảnh
vào túi da thì một người trong bọn họ
hắng
giọng
khiêu khích:
-
Máy ảnh
hiệu
Canon hả?
Máy này mà chụp
cái gì? Coi chừng chụp xong không có ảnh
đấy!
Người
thứ
hai nói trổng:
-
Chiều
rồi,
chụp
gì nữa?
Đi về
đi.
Người
thứ
ba giọng
có vẻ
đe dọa:
-
Mai đừng
đến
đây nữa
nhé. Đến
là có chuyện
đấy.
Nói
xong, cả
ba cười
hô hố
bỏ
đi.
Đợi
chúng đi thật
xa và đoán chắc
chúng không trở
lại
tôi mới
thở
phào nhẹ
nhòm, nhìn vào khuôn mặt bơ phờ của Hoa:
-
Em có nhớ
mình bắt
đầu
làm nghề
chụp
hình từ
năm nào không?
-
Nhớ
chứ
anh. Từ
1979, khi con mình được 3 tuổi.
-
Mới
đó mà đã ba năm. Đã ba năm mình không có Tết mà con mình thì vẫn
chưa
hết
suy dinh dưỡng. Còn anh, chắc
anh sẽ
suy nhược
thần
kinh mất
thôi./.
1983
Phạm Cao
Hoàng
MƠ CÙNG TÔI GIẤC MƠ ĐÀ LẠT
đứng bên bờ vực tử sinh
vẫn nghe em hát bản tình ca xưa
P.C.H.
1.
Hôm ấy
là Saint Patrick’s Day, 17.3.2011. Như thường lệ, Cúc Hoa và tôi thức dậy
sớm, uống với nhau một cốc cà phê, ăn nhanh bữa điểm tâm nhẹ, rời nhà và đi
làm. Chúng tôi không làm chung một chỗ nhưng đi làm cùng một giờ và ngày nào
chúng tôi cũng phải có mặt ở chỗ làm trước 6 giờ sáng.
Từ nhà đến chỗ làm không xa lắm, khoảng mười phút lái xe.
Khoảng 7
giờ sáng tôi nhận được điện thoại từ chỗ Cúc Hoa làm, hỏi sao
không thấy Cúc Hoa đến. Tôi hốt hoảng. Từ lúc rời
nhà đến giờ đã một tiếng đồng hồ rồi, sao lại chưa tới chỗ làm? Đây là điều không bình
thường. Hoặc là xe bị hỏng trên đường đi, hoăc là bị đụng xe. Không
lẽ bị bắt cóc? Tôi bấm máy gọi điện thoại cho Cúc Hoa. Gọi nhiều
lần nhưng không thấy Cúc Hoa trả lời. Rõ ràng có chuyện chẳng lành. Tôi
báo tin cho các con tôi biết và cùng nhau đi tìm trên lộ trình Cúc Hoa vẫn
đi về hàng ngày. Không thấy bóng dáng Cúc Hoa và cũng không tìm thấy
chiếc xe của Cúc Hoa đâu.
Lại liên
tiếp bấm số điện thoại của Cúc Hoa để gọi. Đến hơn 8 giờ thì
điện thoại của Cúc Hoa đổ chuông, Người trả lời không phải là Cúc
Hoa, mà là một giọng nữ người Mỹ.
Tôi hỏi
ngay:
-
Nhà tôi đang ở đâu, thưa cô?
-
Inova Fairfax Hospital.
-
Chuyện gì đã xảy ra cho nhà tôi?
-
Bà ấy bị đụng xe. Xe cấp cứu đưa vào bệnh viện sáng sớm hôm nay.
-
Bị thương có nặng không?
-
Thoát chết nhưng bị thương khá nặng.
Vừa
lúc ấy tôi nhận được điện thoại của Quỳnh Anh, cô gái út của tôi.
-
Con đã vào tới bệnh viện. Đang làm một số thủ tục về thông tin
cá nhân và bảo hiểm. Má đang nằm trong phòng cấp cứu. Họ cho biết má
bị rạn ở xương chậu và phía dưới đầu gối, cần được
phẫu thuật ngay trong ngày hôm nay.
-
Ba và mọi người sẽ vào ngay.
-
Khỏi cần ba ơi . Có con ở đây được rồi mà. Vào cũng ngồi đó
thôi, họ chưa cho gặp đâu. Chiều rồi hẵn vào, tiện thể mang theo đồ đạc
cho má luôn.
Ở nhà
đứng ngồi không yên nên sau đó mọi người vào hết trong bênh viện.
Đến 3
giờ chiều thì ca mổ xương chậu hoàn tất và hai tiếng sau đó
họ đưa tôi vào phòng hồi sức gặp Cúc Hoa. Tôi bước vào, nhìn thấy Cúc Hoa.
Mặt Cúc Hoa hơi sưng và có một vết bầm nhỏ trên mũi, còn chân trái thì
băng kín mít. Cúc Hoa mở mắt nhìn tôi, không nói gì, rồi hai dòng nước mắt
từ từ lăn trên má. Khuôn mặt và đôi mắt của Cúc Hoa buồn một cách
lạ lùng. Suốt đời tôi, tôi sẽ không bao giờ quên khuôn mặt Cúc
Hoa và những giọt nước mắt ấy. Khuôn mặt của sự chịu đựng một
đời gian khó cùng những giọt nước mắt của hạnh phúc xen lẫn khổ đau.
Chúng tôi
yêu nhau thời chiến tranh, cưới nhau lúc hòa bình,
cuộc sống triền miên vất vả,
và bây giờ Cúc Hoa phải chịu những đớn
đau ghê gớm về thân xác trong những ngày
lưu lạc ở xứ người. Tôi tự hỏi tại sao không phải là
tôi mà lại là Cúc Hoa. Tôi cũng không ngờ có một ngày Cúc Hoa phải rơi vào
một hoàn cảnh như thế này vì Cúc Hoa vốn là người lái xe rất
cẩn thận.
Đêm đó ai
cũng muốn ở lại trong bệnh viện với Cúc Hoa nhưng
họ chỉ cho phép một người . Tôi nói các con
cứ về đi làm bình thường, còn tôi sẽ là
người ở lại. Trong những giờ phút khó khăn nhất của Cúc Hoa, tôi
cần phải có mặt bên nàng.
Cúc Hoa
nằm đó, trên giường bệnh, lặng lẽ, hơi thở mệt nhọc. Tôi ngồi bên cạnh,
nghĩ lan man đủ thứ chuyện, nhớ mênh mang đoạn đường đời mà hai
chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi quen nhau trong một đêm thơ nhạc do
nhóm bạn Phan Bá Chức, Nguyễn Ngọc Phong, Trần Minh Triền, Nguyễn Khắc Nhượng
và Nguyễn Hiền Tiên phối hợp với Lê Uyên Phương
tổ chức ở quán Lục Huyền Cầm, Đà Lạt. Thuở ấy
tôi mê thơ và nhạc hơn bất cứ thứ gì trên cõi đời này. Tôi là
một con ngựa hoang chỉ thích rong ruổi lang thang đây dó. Khi quen Cúc
Hoa, mọi thứ bắt đầu thay đổi, và tôi biết đã đến lúc tôi cần phải dừng
bước giang hồ. Cúc Hoa đến với tôi nhẹ nhàng , nồng nàn, và vô
cùng lãng mạn.
Thế hệ chúng
tôi, mà Trần Hoài Thư gọi là “thế hệ chiến tranh”,
là một thế hệ không may mắn. Thời chiến tranh thì sống trong
chết chóc, lo âu, sợ hãi. Khi hòa bình thì sống trong
cơ cực, khó khăn. Sự nhẹ nhàng, nồng nàn, và lãng
mạn của Cúc Hoa đã giúp tôi vượt qua những khó khăn nhiều lúc tưởng chừng
như không vượt qua nổi.
Cúc Hoa
nằm đó, trong nỗi đớn đau của thân xác.
thương em
ngày nắng Tuy Hòa
chiều mưa
Đức Trọng sáng Đà Lạt sương
thương em
và những con đường
một thời
tôi đã cùng em đi về
bây
giờ lạ đất lạ quê
bước chân
phiêu bạc biết về nơi đâu
thương em
nắng dãi mưa dầu
đau cùng
tôi với nỗi đau riêng mình
chia cùng
tôi một chút tình
của ngàn
năm trước và nghìn năm sau
Cúc Hoa
nằm đó, vẫn khuôn mặt thánh thiện nhưng có hằn lên những nét khổ đau. Một
đời Cúc Hoa hết tình hết nghĩa với tôi và các con. Tôi cầu mong sao vết thương
không nặng lắm để Cúc Hoa có thể vượt qua tai ách này.
Đến gần
nửa đêm, Cúc Hoa tỉnh thuốc mê và đã có thể gượng nói chuyện với tôi.
-
Em có nhớ mọi việc xảy ra như thế nào không?
-
Em chỉ nhớ là mình lái xe chạy trên đường Westfields, qua khỏi bưu
điện thì không biết gì nữa.
-
Em thấy trong người thế nào?
-
Đau nhức và ê ẩm khắp người. Em bị thương có nặng không anh?
-
Chân trái em bị rạn hai chỗ. Chiều nay họ đã mổ và chỉnh sửa
phần bị rạn ở xương chậu.
-
Chừng nào họ mổ chỗ còn lại?
-
Họ nói phải theo dõi sự hồi phục và sức chịu đựng của em rối mới tính
tiếp.
-
Liệu sau này chân em có bị tật hay không?
-
Không đâu em.
Tôi nói
để Cúc Hoa an tâm chứ thật ra chỉ có trời mới biết rồi đây Cúc
Hoa sẽ như thế nào.
Cúc Hoa
trầm ngâm, im lặng hồi lâu.
-
Em đang nghĩ gì?
-
Em buồn quá . Hết chuyện này đến chuyện khác. Muốn yên mà vẫn không yên.
-
Em cứ bình tĩnh, mọi việc rồi cũng sẽ ổn thôi.
- Em
nhớ Đà Lạt. Mai mốt lành bệnh anh đi với em về Đà Lạt anh nhé.
-
Ừ, anh sẽ đi với em. Sao em lại nghĩ về Đà Lạt trong lúc này?.
-
Thật ra, không phải lúc này, mà lúc nào em cũng nghĩ về Đà Lạt. Em
tìm thấy sự bình yên ở đó.
-
Anh cũng nghĩ như em.
-
Anh ơi. Anh hát em nghe bài GỬI EM, ĐÀ LẠT đi.
Vẫn là
một Cúc Hoa đầy chất lãng mạn trong bất cứ hoàn cảnh nào nên tôi không
ngạc nhiên về đề nghị này. Đứng bên bờ vực
tử sinh. Vẫn nghe em hát bản tình ca xưa. Lúc này
đây, trong nỗi đau đớn tột cùng của Cúc Hoa, tôi sẵn sàng làm bất
cứ điều gì để nhẹ bớt đi nỗi đau của nàng, huống chi là hát một
bài hát. GỬI EM, ĐÀ LẠT là bài hát tôi viết cho Cúc Hoa khi chúng tôi mới quen
nhau.
Tôi hát
nhỏ, vừa đủ cho Cúc Hoa nghe.
sáng nay
mưa đã về
ngàn
thông xao xuyến khách phương xa
hỡi cô em
Đà Lạt
về đâu?
tôi muốn
theo về với người
mưa cho
đôi má em hồng
mưa cho
đôi mắt nai tròn
mưa bay
qua cõi vô cùng
và tôi
bay giữa mênh mông
mưa âm
vang suốt bên đời
mưa lang
thang mấy phương trời
mưa qua như dáng
thu người
đời vui
thêm tiếng em cười
sáng nay
mưa đã về
vườn kia
hoa nở đóa tương tư
gửi cô em
Đà Lạt
bài
thơ tôi viết khi về với người
Cúc Hoa
nói nhỏ:
-
Cám ơn anh.
Tôi đùa:
-
You’re welcome.
- Anh ơi.
Em muốn gặp Thuần. Anh nói Thuần sang thăm em anh nhé.
-
Sao em lại nghĩ đến Thuần trong lúc này?
-
Cứ nghĩ về Đà Lạt là em lại nghĩ đến anh, đến Thuần, và những
ngày tháng êm đềm hồi đó.
-
Ừ, anh sẽ nói Thuần sang thăm em.
Bây giờ thì em cố gắng ngủ để lấy lại sức.
Thuần là
bạn thân của Cúc Hoa. Cả hai học cùng một lớp, nhà ở cùng một
đường. Sau 1975, còn gặp nhau được mấy lần, rồi Thuần vượt biên, mất liên lạc.
Mãi đến thời gian gần đây, nhờ một bài viết của Trần Yên Hòa trên nhật báo
Sài Gòn Nhỏ ở California, Thuần mới nối lại liên lạc với Cúc
Hoa. Thuần đẹp, lãng mạn, và chuyện tình của Thuần và Thịnh là một trong
những chuyện tình tuyệt vời nhất trần gian này.
Trong
thời gian Cúc Hoa quen với tôi thì Thuần quen với Thịnh, lúc ấy đang
học ở Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Sau 1975, Thuần tiếp
tục học những năm cuối ở đại học khoa học, còn Thịnh đi học tập cải
tạo, và hai người mất liên lạc với nhau. Một ngày kia, trong một lần đi thực
tập tại một vùng nông thôn ở Bình Thuận, tình cờ Thuần gặp một
nhóm tù cải tạo, trong đó có Thịnh. Trước mắt Thuần, Thịnh không còn là Thịnh
hào hoa phong nhã ngày nào, mà là một tấm thân tàn ma dại, bị sốt rét nặng
nên bước đi không nổi, phải chống gậy. Sau lần gặp gỡ ấy, Thuần thường
xuyên đi thăm nuôi Thịnh. Bất chấp lời ra tiếng vào, Thuần giữ nguyên tấm
lòng chung thủy, và khi Thịnh ra tù hai người tổ chức đám cưới, Rồi người
đi trước, kẻ đi sau, cả hai cuối cùng cũng đến được nước Mỹ sau
nhiều lần vượt biên thừa sống thiếu chết. Hiện nay họ là những người khá
thành công, sống hạnh phúc cùng hai con ở New Orleans, tiểu bang
Louisiana.
Năm ngày
sau các bác sĩ tiến hành ca mổ thứ hai, chỉnh sửa
chỗ rạn ở phần xương phía dưới đầu gối. Lại lên bàn mổ. Lại gây
mê. Lại ngồi nơi phòng tiếp tân của khoa giải phẫu, hồi hộp từng giây từng
phút chờ kết quả ca mổ. Chỉ trong vòng năm ngày mà Cúc Hoa phải
trải qua hai ca đại phẫu, liệu nàng có đủ sức để chịu đựng ca
mổ thứ hai không?
Cuối cùng
thì mọi viêc diễn tiến tốt đẹp và ca mổ hoàn tất.
Lisa, cô
y tá trực, nói với tôi:
-
Các bác sĩ rất ngạc nhiên về sức chịu đựng và khả năng hồi phục của
bệnh nhân này. Nhiều người phải chờ một hoặc hai tuần sau mới thực hiện ca
mổ tiếp theo.
-
Cô có nghĩ là sau này nhà tôi sẽ bình thường không?
-
Tôi nghĩ vậy.
Tuy nhiên
tôi vẫn chưa an tâm. Tôi tìm gặp Daniel, bác sĩ chính của ca mổ.
-
Thưa bác sĩ, phải mất bao lâu nhà tôi mới có thề đi
lại được?
- Khoảng
6 tháng. Mấy tháng đầu đừng gập đầu gối quá 90 độ và hai chân không được
chéo qua nhau.
-
Khi về nhà việc chăm sóc sẽ như thế nào?
-
Chúng tôi sẽ cho y tá và therapists đến tận nhà chăm sóc và theo dõi trong
một tháng, mỗi tuần 3 lần. Tuy nhiên người nhà cần sắp xếp để chăm sóc
bệnh nhân hai bốn trên hai bốn. Nếu cần giúp đỡ, hãy gọi chúng tôi.
-
Liệu sau này nhà tôi có bị tật ở chân không?
-
Cái đó còn tùy vào sự luyện tập của bệnh nhân.
Thôi thì
bao lâu cũng được, vất vả bao nhiêu cũng được, tốn kém thế nào cũng
được, miễn là Cúc Hoa có thể trở lại cuộc sống bình thường, đi tiếp
cùng tôi và các con trên quãng đường còn lại.
2.
Cúc Hoa
xuất viện vào một ngày cuối đông. Những cơn bão tuyết đã đi qua, cây phong
trước nhà đã bắt đầu đâm chồi non, và khu vườn sau nhà đã có tiếng chim hót líu
lo sau những ngày trốn tuyết. Cúc Hoa trở về mái nhà
xưa bằng xe lăn nhưng miệng vẫn tươi cười. Tôi hiểu tâm trạng của
nàng. Ở đâu cũng không bằng ở nhà của mình. Còn
về được tới nhà là mừng rồi.
Các con
tôi, Thiên Kim, Anh Kim, Quỳnh Anh, chị Vân - một người bạn
của Cúc Hoa, và tôi lên lịch chăm sóc Cúc Hoa, chia phiên nhau đế lúc nào
cũng có người bên cạnh giúp Cúc Hoa tập therapy và các sinh hoạt cá nhân.
Tôi đặt chiếc sofa gần chỗ nằm của Cúc Hoa làm giường ngủ cho mình
vào ban đêm để tiện việc chăm sóc.. Đó là khoảng thời gian tôi không phân
biệt ngày và đêm, khi nào cần thức thì cứ thức, khi nào mệt quá thì
ngủ thiếp đi.
Cúc Hoa
ái ngại cho tôi và các con:
-
Em ân hận quá. Vì em mà anh và các con phải khổ.
-
Em đừng nghĩ vậy.
-
Đã nhiều đêm anh mất ngủ. Anh có mệt lắm không?
- Đâu có
sao. Có mệt một chút nhưng thấm vào đâu so với những khổ sở mà em
đang phải gánh chịu.
-
Nằm một chỗ em mới hiểu hết giá trị của đôi chân.
-
Vấn đề là thời gian. Sáu tháng sẽ trôi qua, rồi em sẽ đi lại
bình thường thôi mà.
Cúc Hoa
dân Đà Lạt nên quen uống cà phê vào buổi sáng. Sáng nào Cúc Hoa cũng pha hai ly
cà phê sữa, một cho tôi và một cho nàng. Trừ phi có bạn bè, còn bình thường
tôi ít khi ra quán vì chỉ thích cà phê do Cúc Hoa pha. Cám ơn
những sáng êm đềm. Khói cà phê quyện bên hiên nhà mình. Bây
giờ Cúc Hoa nằm bệnh tôi quên mất thói quen này, sáng ra cũng chẳng buồn
pha cà phê.
Cúc Hoa
nói với tôi:
-
Em đã quen với mùi cà phê mỗi sáng mấy chục năm nay rồi, bây giờ vắng nó
thấy nhớ quá. Em không uống được nhưng anh cứ pha một ly cho anh
để em có thể tìm lại mùi cà phê.
-
Lu bu đủ thứ chuyện rồi cũng quên luôn. Ừ, mỗi sáng anh
sẽ làm như vậy.
Đến cuối
tuần, các con tôi tổ chức barbecue, mừng mẹ đã về nhà. Các em
của Cúc Hoa -Ánh và Trung, từ Maryland cũng lái xe sang tham dự. Mọi người
đều vui vì Cúc Hoa đã có thể nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường
hầm.
Vừa
lúc ấy, Nguyễn Trọng Khôi từ Boston gọi sang:
-
Tình hình sao rồi? Cúc Hoa đã về tới nhà chưa?
-
Về rồi. Cả nhà đang ăn mừng.
-
Ông nói gì lạ vậy? Sao lại ăn mừng? Nghe nói nặng lắm mà.
- Đúng là
nặng. Mừng là vì là vì chỗ bị thương là chỗ có thể chữa
trị được, còn đầu óc thì vẫn bình thường.
-
Như vậy thì cũng đáng mừng thật. Đầu tháng tới sang Virginia triển lãm
tranh tôi sẽ ghé thăm.
Trước
1975, khi còn ở Đà Lạt, Cúc Hoa và tôi rất thân với Phan Bá Chức và
Hoàng Ngọc Lĩnh. Bây giờ có lúc Lĩnh ở Canada, có
khi ở Singapore, rồi lại trở về Việt Nam. Tháng trước từ Canada Lĩnh sang ở lại với chúng tôi mấy
ngày, đã có một tối họp mặt đáng nhớ, và Lĩnh cứ khóc vì được sống lại cái
không khí ấm cúng của thơ và nhạc, của tình bạn thuở nào. Đêm đó
chúng tôi uống rượu chát, nghe Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Ngọc Phong hát, nghe
Đinh Cường, Nguyễn Minh Nữu đọc thơ.
Từ Singapore
Lĩnh gọi sang, giọng hốt hoảng:
-
Lĩnh có nghe tin này, và mong nó là cái tin không có thật. Có phải Cúc
Hoa bị đụng xe không?
-
Đó là tin có thật Lĩnh ơi.
-
Mới tháng trước gặp Cúc Hoa mà bây giờ sao lại thế này?
-
Hôm đó Cúc Hoa lái xe đi làm và không may tai nạn đã xảy ra.
-
Có biết nguyên nhân vì sao không?
-
Phải chờ report của cảnh sát mới biết được .
-
Bị thương có nặng không.
-
Nói là nặng cũng được, mà nhẹ cũng được, nhưng nói chung mọi việc
sẽ không đến nỗi nào.
-
Như vậy là mừng cho Cúc Hoa quá. Hàng tuần Lĩnh sẽ gọi sang nói
chuyện cho Cúc Hoa vui.
Thời
gian ở Virginia tôi may mắn được gặp gỡ hai họa sĩ tài hoa Đinh
Cường và Nguyễn Trọng Khôi. Duyên văn nghệ đã giúp tôi có được mối thân
tình với những kỳ hoa dị thảo này. Cả hai đều có đặc điểm chung
là sống hết lòng với nghệ thuật, bạn bè, và gia đình.
Đinh Cường người nho nhã, hiền hòa, ít nói. Nguyễn Trọng
Khôi lịch lãm, hào sảng, và tháo vác. Nhìn những công trình nghệ thuật
đồ sộ của họ, tôi thấy mình nhỏ bé lại.
Riêng
Nguyễn Trọng Khôi có một khả năng rất đặc biệt, thuộc vào loại hiếm có:
anh có thể viết nhạc, tự soạn hòa âm cho bản nhạc đó, tự hát
như một ca sĩ có đẳng cấp, tự thu âm, và sau đó tự làm thành
đĩa CD hoặc DVD.
Đầu tháng
tư, Nguyễn Trọng Khôi từ Boston mang tranh sang Virginia cùng các
họa sĩ Đinh Cường và Trương Vũ tổ chức cuộc triển lãm
chủ đề Awakening Spring tại Arlington Arts Gallery, sẵn dịp hai anh
ghé thăm Cúc Hoa.
Bước vào
nhà, nhìn thấy Cúc Hoa ngồi trên xe lăn, anh Đinh Cường nói ngay:
-
Mấy hôm rồi tôi vẫn cầu nguyện cho Cúc Hoa.
Còn
Nguyễn Trọng Khôi lấy từ túi xách ra một gói nhỏ :
-
Quà cho Cúc Hoa.
Cúc Hoa
và tôi không thể tin vào mắt mình. Đây là đĩa DVD bài hát GỬI EM, ĐÀ
LẠT, Nguyễn Ngọc Phong hát, Nguyễn Trọng Khôi soạn hòa âm và thu âm, trên đĩa
có in hình của Cúc Hoa. Cúc Hoa xúc động đến nghẹn ngào, còn tôi khó có
thể diễn tả hết cảm xúc của mình lúc ấy. Tôi thấy có sợi dây
tình cảm thiêng liêng nối tấm lòng của những người bạn văn nghệ lại với
nhau. Từ khi nghe tin Cúc Hoa bị nạn đến hôm nay chỉ mới
có mười ngày, lại bận rộn với việc chuẩn bị cho cuộc triển lãm, vậy mà
Nguyễn Trọng Khôi và Nguyễn Ngọc Phong làm xong bài hát để tặng Cúc Hoa.
Trước
ngày Cúc Hoa bị tai nạn một thòi gian ngắn, Cúc Hoa và tôi cùng hàng triệu
người trên thế giói đã xúc động về câu chuyện tình của hai bạn trẻ người
Mỹ Chris Medina và Juliana Ramos. Medina, 26 tuổi, sống ở Chicago, đính hôn với Ramos vào năm
2007, và lễ cưới dự định sẽ diễn ra hai năm sau. Trước ngày cưới hai
tháng, Ramos không may bị đụng xe, chấn thương
sọ não, không còn nói được, chân tay gần như bị liệt, và
trở thành một người tàn phế suốt đời, mọi sinh hoạt của bản thân phải
cần đến sự trợ giúp của người khác. Medina vẫn giữ lòng chung
thủy với vị hôn thê, tự nguyện làm người chăm sóc thường xuyên (a
full-time caretaker) cho Ramos.
Những
ngày Ramos nằm bệnh viện, Medina viết ca khúc WHAT HAS BECOME OF ME tặng
cho Ramos, trong đó có những ý tưởng đầy xúc cảm: 'Tôi đang dành cho em tất
cả những gì tôi cần phải dành cho em… Trong giờ phút đen tối nhất của
cuộc đời em, tôi sẽ là ánh sáng cho em ( I’m giving you all I’ve got to
give… In your darkest hour, I’ll be your light)".
Trường
hợp của Cúc Hoa không bi đát như Ramos, nhưng câu chuyện của Medina và
Ramos nhắc tôi phải làm một cái gì đó nhiều hơn cho Cúc Hoa.
DVD GỬI
EM, ĐÀ LẠT mà Nguyễn Trọng Khôi và Nguyễn Ngọc Phong thực hiện là món quà
vô giá dành cho Cúc Hoa vì Cúc Hoa vốn rất coi trọng các giá trị tinh
thần. Liên tiếp trong nhiều ngày, Cúc Hoa xem đi xem lại DVD GỬI EM, ĐÀ LẠT. Món quà của những người bạn quí làm Cúc Hoa thay
đổi rất nhiều: lên tinh thần và bớt bi quan.
Tôi liên
lạc với chỗ làm, xin nghỉ vacation một tháng để ở nhà với
Cúc Hoa. Theo hướng dẫn của các nhân viên therapists , tôi giúp Cúc Hoa
tập therapy. Đưa chân lên, thả chân xuống, Trèo lên giường, xuống khỏi
giường. Nhảy cò cò một chân. Tập đi bằng cái walker. Lê lết, mệt nhoài, đớn
đau, toát mồ hôi, và cả nước mắt. Bị tật ở chân
hay không còn tùy ở sự luyện tập của bệnh nhân. Một đời đã
vượt qua bao khó khăn, lần này không thể bỏ cuộc. Lại
còn giấc mơ Đà Lạt nữa. Về Đà Lạt sẽ đi
bộ nhiều, đi để tìm lại những kỷ niệm một thời, không đi được
thì làm sao thực hiện giấc mơ Đà Lạt? Nhìn những đau đớn của Cúc Hoa
khi luyện tập, tôi thấy quá tội nghiệp. Dù hết sức cố gắng trong hơn
bốn tháng, Cúc Hoa vẫn chưa tự đi được mà vẫn phải nhờ vào cái
walker. Tôi không ngờ việc khôi phục những bước đi của Cúc Hoa lại khó
khăn đến như vậy. Thôi thì tự an ủi, bác sĩ nói phải mất
sáu tháng mà.
Cho đến
một ngày đầu tháng tám, cả nhà chuẩn bị để hai hôm nữa Thuần
từ New Orleans sang chơi thì phép lạ đã xảy ra. Buổi sáng thức giấc,
Cúc Hoa xuống khỏi giường, thử đứng lên và bước đi thì bỗng dưng đi được.
Một bước, rồi hai bước, rồi những bước tiếp theo, rất chậm, nhưng không cần đến
cái walker. Thử đi lên cầu thang thì cũng đi được. Quả là một ngày
đáng nhớ. Cúc Hoa đã tìm lại những bước đi của mình.Không biết đã
đến lúc đi được, hay vì niềm vui gặp lại người bạn thân sau hơn ba mươi năm xa
cách đã làm cho Cúc Hoa tăng thêm sức mạnh. Có thể là cả hai.
Cô út
Quỳnh Anh và tôi được giao nhiệm vụ ra phi trường Dulles đón Thuần.
Máy bay đến đúng giờ. Tôi dễ dàng nhận ra Thuần trong đám đông hành khách
vì Thuần không thay đổi bao nhiêu Vẫn đẹp và có phần trẻ hơn so với tuổi
tác.
Thuần đi
nhanh đến chỗ tôi:
-
Anh Hoàng phải không?
-
Trông Thuần không khác hồi xưa bao nhiêu.
-
Hơn ba mươi năm rồi còn gì. Cúc Hoa đỡ chưa?
-
Đỡ nhiều rồi. Gặp Thuần chắc sẽ đỡ hơn.
Gặp lại Thuần
là điều Cúc Hoa mơ ước trong nhiều năm . Những ngày Thuần ở lại
là những ngày vui bất tận. Thôi thì nói đủ thứ chuyện trên trời dưới
đất. Các con tôi, vốn rất quí trọng bạn bè của bố mẹ, sắp xếp
công việc để vui với Thuần, làm các món ăn Việt Nam đãi
Thuần, đưa Thuần đi thăm những nơi cần viếng thăm như Thủ Đô
Washington, DC và Khu Thương Mại Eden
của người Việt Nam ở Virginia.
Sự có mặt của Thuần làm Cúc Hoa mạnh mẽ hẳn lên,
bước chân nhanh hơn, và tác động khá mạnh đến tinh thần của Cúc Hoa. Sau
ngày chia tay với Thuần, Cúc Hoa siêng năng luyện tập , bước đi tiến
bộ thấy rõ.
3.
Tai nạn
xảy ra vào cuối mùa đông. Bây giờ là đầu thu. Những hàng cây hai bên đường
bắt đầu ngã sang màu vàng. Nhiệt độ dịu dần. Cúc Hoa đã có thể đi lại
gần như bình thường.
-
Anh ơi. Tối nay anh đi bộ với em nghe.
-
Em muốn đi bộ ngoài trời?
-
Ừ, đi bộ ngoài trời. Mùa thu rồi mà.
Mùa thu
rồi mà. Mùa thu năm ấy bên thềm lá bay. Bàn tay nắm
chặt bàn tay. Dìu nhau qua những tháng ngày gian nan. Chúng tôi chầm
chậm đi bên nhau dọc theo những con đường quanh khu nhà chúng tôi
đang ở. Đây là lần đầu tiên kể từ cái ngày định mệnh ấy Cúc
Hoa có thể đi bộ ngoài trời trên một đoạn đường khá xa. Nhà chúng
tôi ở đường Ngựa Ô và đêm nay Cúc Hoa đã có thể đi bộ đến
tận hồ Thạch Thảo.
-
Em như vừa sống lại. Bao giờ mình đi Đà Lạt hả anh?
-
Ba tháng nữa thì mình sẽ đi.
-
Anh biết em mơ gì không?
-
Mơ gì?
-
Khi vừa đến Đà Lạt, mình kiếm một chiếc xe chạy về đường Hai Bà Trưng
để em nhìn căn nhà nơi em sinh ra và lớn lên.
-
Sau đó?
- Sau
đó đến đường Bùi Thị Xuân, ngang qua chỗ của quán Lục
Huyền Cầm ngày xưa, nơi đã đưa anh đến với cuộc đời em.
-
Tiếp theo?
-
Vào cà phê Tùng, anh uống một ly cà phê đen, em uống một ly đá chanh.
-
Xong rồi đi đâu?
-
Xuống chỗ Cầu Ông Đạo, ghé Thủy Tạ uống thêm một cái gì đó. Có
thể anh uống một ly rượu mạnh, còn em sẽ uống một ly cà phê sữa.
-
Rồi thì đi đâu nữa?
-
Rồi thì đi đâu cũng được, miễn là Đà Lạt.
Trời đông
bắc đêm nay đẹp lạ lùng, và bên tôi Cúc Hoa đang mơ cùng tôi
giấc mơ Đà Lạt.
Virginia,
October 2011
Phạm
Cao Hoàng
VỀ CHỐN CŨ
1.
Chuyến đi
chỉ có ba tuần mà chúng tôi phải chuẩn bị đến gần ba tháng.
Có nhiều thứ để chuẩn bị nhưng quan trọng nhất vẫn
là sức khỏe của Cúc Hoa. Cúc Hoa dành nhiều thời gian để tập đi bộ và
leo dốc. Kết quả chụp X-ray trong lần tái khám sau cùng cho
thấy chỗ xương bị rạn đã lành hẳn. Bước đi chưa nhanh nhưng đã lấy
lại được sự thăng bằng cần thiết. Như vậy là có thể an tâm
lên đường. Ngày nào chúng tôi cũng bàn với nhau về những
thứ cần mang theo, những nơi cần phải đến, những người cần phải thăm. Hơn mười
năm rồi. Nhớ từng con đường, từng góc phố, từng khuôn mặt thân thương.
Đêm trước
ngày lên đường, chúng tôi thức trắng. Cả nhà rộn ràng như đêm giao
thừa. Sau những tháng năm chờ đợi, hôm nay chúng tôi trở lại quê nhà.
Chúng
tôi đi máy bay của hãng hàng không Korean Air,
lộ trình Virginia – Seoul và Seoul – Sài Gòn. Từ Virginia
đến Seoul mất 13 tiếng và từ Seoul về Sài Gòn thêm 5 tiếng
nữa. Korean Air để lại cho tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp vì đội ngũ tiếp
viên rất lịch sự và chu đáo. Đường xa tưởng là mệt lắm nhưng
chẳng mệt gì cả. Định lên máy bay sẽ ngủ bù nhưng rồi cũng không
ngủ được. Cứ dán mắt vào màn hình trước mặt theo dõi lộ trình
chuyến bay xem đã đến đâu, còn bao lâu nữa thì tới. Khoảng cách
cứ thu lại dần, cho đến khi máy bay hạ cánh xuống phi trường
Incheon, Nam Hàn, chúng tôi cảm thấy nhẹ nhỏm. Đoạn đường xa nhất đã vượt
qua. Còn 5 tiếng nữa thôi, sắp về tới nhà rồi.
9.1.2012,
gần nửa đêm, chúng tôi về tới Tân Sơn Nhất. Làm thủ tục nhập cảnh
xong, chúng tôi tìm đến chỗ nhận hành lý. Đồ đạc chúng tôi mang theo
khá nhiều nên cũng hơi lo không biết có cái nào bị thất lạc hay không. May
quá, không có cái nào bị thất lạc. Chúng tôi nghỉ qua đêm tại một
khách sạn nhỏ ở Sài Gòn và chiều hôm sau đã có
mặt ở Tuy Hòa.
Tuy Hòa
là một thành phố biển nằm giữa Nha Trang và Qui Nhơn, nơi tôi sống suốt
thời gian theo học bậc trung học. Rời phi trường Đông Tác, chúng tôi đi nhanh
một vòng trong thành phố. Tôi muốn thấy lại chiếc cầu 21 nhịp mà hồi đó tôi gọi
là những nhịp cầu đen buồn bã. Tôi muốn nhìn lại ngôi trường Nguyễn
Huệ, nơi đầy ắp những kỷ niệm của tuổi học trò.
Chúng tôi
chỉ có một tuần ở Tuy Hòa. Tôi dành hết khoảng thời gian này
để về Phú Thứ thăm mồ mả ông bà, thắp mấy nén nhang
cho cha mẹ tôi và ở lại trong căn nhà thời thơ ấu. Xe chạy
về Phú Thứ trên con đường quen thuộc dọc theo mương dẫn thủy của đập
Đồng Cam, dọc theo những cánh đồng thơm ngát mùi hương của đất.
mùi hương
của đất làm con nhớ
những
giọt mồ hôi, những nhọc nhằn
cha đã vì
con mà nhỏ xuống
cho giấc
mơ đời con thêm xanh
mùi hương
của đất làm con tiếc
những
ngày hoa mộng, thuở bình yên
nồi cá rô
thơm mùa lúa mới
và tiếng
cười vui của mẹ hiền
Tôi
mơ hồ thấy bóng cha tôi đang cúi xuống trên đồng ruộng,
mồ hôi nhễ nhại, thấy bóng mẹ tôi thấp thoáng sau
bếp, loay hoay chuẩn bị bữa cơm chiều.
Cũng như nhiều
gia đình ở miền nam, sau 1975 anh em tôi sống tản mác
nhiều nơi, người sang Pháp, người qua Mỹ, người ở lại quê nhà.
Chị Ba, chị Bốn, Tâm và Bảo là những người ở lại.
Suốt những ngày ở đó, mấy chị em cứ quấn quít bên nhau.
Chúng tôi có những bữa ăn nơi chiếc bàn mà ngày xưa cả nhà thường quây
quần trong bữa cơm chiều. Chúng tôi có những buổi tối ngồi trước hiên nhà
chuyện vãn đến hai ba giờ sáng.
Tôi ra
dòng sông Ba phía sau nhà, ngồi bên bờ sông mà lòng bồi hồi xúc động. Dù
sao tôi vẫn còn may mắn có một quê nhà để mà trở lại, có một
dòng sông để ngồi nhớ tuổi thơ mình.
Không
về thì thôi, đã về thì phải gặp người này một chút, người kia
một chút cho vui. Đất lề quê thói mà. Do vậy, Bảo đưa tôi đi chào hỏi bà
con. Trời mưa lai rai cả ngày nhưng đi thì cứ phải đi. Phước Bình,
Phước Mỹ, Phú Nhiêu, Hòa Mỹ, Phú Thứ, Mỹ Lệ… Bà con nội ngoại chằng chịt,
thật tình tôi không nhớ hết. Tôi đùa với Bảo, “ Chú đưa đi
đâu thì anh đi đó, bảo chào ai thì anh chào”.
Một tuần
qua thật nhanh. Chưa kịp gì cả thì lại đến ngày phải ra đi. Không biết đây
là lần thứ mấy tôi phải từ giã nơi này. Cứ mỗi lần ra
đi, tôi lại nhớ đến đôi mắt của mẹ tôi. Lần nào cũng vậy,
bà cứ cầm lấy bàn tay tôi, “Đi đâu thì đi, nhưng lâu lâu
nhớ về nghe con”. Ngày cuối cùng, tôi cứ nhìn đi nhìn lại
căn nhà thời thơ ấu của mình, nhìn đi nhìn lại khuôn mặt của những người
thân yêu trong gia đình. Chỉ lát nữa đây thôi, tất cả chỉ còn
trong trí nhớ, chưa biết bao giờ mới gặp lại nhau.
2.
Trở lại
Sài Gòn, chúng tôi có một đêm dành riêng cho nhóm bạn cũ ở Đà Lạt:
Trần Minh Triền, Lan Khanh, Phan Bá Chức, Duy Thoán, Hồng Nam, Nguyễn Khắc Nhượng.
Thời ở Đà Lạt, chúng tôi sinh hoạt chung trong ca đoàn TIẾNG NÓI, và
Phan Bá Chức là linh hồn của ca đoàn. Ngoài hai mươi tuổi, Chức đã có
thể dàn dựng và điều khiển những bản hợp xướng lớn như TRƯỜNG CA SÔNG
LÔ, KHÚC HÁT SÔNG THAO… với hàng trăm người hát. Chúng tôi
gọi Chức là tự điển nhạc vì Chức thuộc và nhớ nhạc và lời của rất
nhiều bài hát. Nhớ đến mức đáng ngạc nhiên. Chức có thói quen khi hát
cứ nhắm nghiền mắt lại, thả hồn theo dòng nhạc.
Lâu lắm
rồi mới được nghe lại giọng hát của các bạn tôi. NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ĐI, TÌNH
QUÊ, TÌNH HOÀI HƯƠNG… Tiếng hát của các bạn làm tôi nhớ vô cùng những ngày
tháng cũ. Nhớ những đêm lang thang ngoài khu Hòa Bình với Nhượng, ấm
lòng với một ly sữa đậu nành. Nhớ những tối ở nhà Chức Lĩnh nghe
Chức hát những ca khúc trong tập BẦY CHIM XƯA ĐÃ TRỞ VỀ.
Nhớ những sớm sương mù quyện với khói cà phê ở nhà Triền Khanh,
Đơn Dương.
Chức hát
tặng Cúc Hoa bài ĐỒI THÔNG của Y Vân. Đây là bài
hát Hoa
rất thích.
ngồi trên
đồi vắng, bên gốc cây thông già
nhìn
theo dòng suối trôi dưới chân đồi…
ôi ngày
xưa ấy đã qua
tôi nhìn
thơ ấu ra đi
như nhìn
ai đó xa lạ
một ngày
một vắng…
mịt mờ…
Nhượng
đọc một bài thơ Nhượng viết năm 1973 khi xuống thăm tôi ở Trạm
Hành, Đơn Dương. Ngày xưa, đi xe lửa từ Phan Rang lên Đà Lạt, hành khách
phải qua nhiều trạm, trong đó có Trạm Hành, nằm ở phía trên Đơn Dương
một chút. Bài thơ làm tôi nhớ Trạm Hành với rừng tiếp rừng, với một
trời sương trắng phủ mùa đông, với những bông quì
vàng nở rộ khi tháng chạp về, và hình ảnh
chị Tư cùng bạn bè tôi trong những lần tìm đến chốn này.
Một đêm
hội ngộ tuyệt vời. Tôi thật sự xúc động khi được sống lại những giây
phút êm đềm của âm nhạc, thi ca, và tình bạn.
3.
Hôm
sau,chúng tôi về Đà Lạt bằng máy bay của Vietnam Airlines, chuyến 7
giờ sáng. Nôn nao với chuyến đi nên mới 5 giờ sáng chúng
tôi đã có mặt ngoài phi trường.
16.1.2012,
8 giờ sáng, chúng tôi về tới phi trường Liên
Khương. Đà Lạt hiện dần ra trước mắt: Thác Prenn, cây xăng Kim Cúc,
hồ Xuân Hương. khu Hòa Bình… Cúc Hoa nắm chặt bàn tay tôi, ngơ ngác
nhìn cảnh vật hai bên đường.
Đầu tiên
chúng tôi về thăm căn nhà của gia đình Hoa ở đường Hai Bà
Trưng. Cúc Hoa vào lạy bàn thờ ông bà, lững thững ra đứng ngẩn
ngơ trước cổng, rồi lại trở vào nhìn dòng suối nhỏ ở phía
sau nhà. Căn nhà cũ đã phá đi và xây dựng lại. Khung cảnh khác rất nhiều nhưng
có một thứ vẫn còn nguyên vẹn: bức tranh sơn dầu vẽ một chậu hoa, hồi
xưa treo ở phòng khách. Mọi người trong gia đình rất quí bức tranh
này, vốn được vẽ trong thời chiến tranh, do một người lính hải quân
Mỹ vẽ và tặng cho anh Quang Mỹ, người anh cả của Hoa.
Các
em của Hoa - Hương và Tùng - đưa chúng tôi
và Ánh, Trung đi thăm mộ người thân. Tội
nghiệp cho Hoa: muốn thắp cho cha mẹ mình một
nén nhang nhưng không biết thắp ở đâu. Cha mẹ Hoa đều qua
đời ở Mỹ. Nhiều người Việt ở Mỹ được hỏa táng sau khi
chết, tro được rải xuống Đại Tây Dương, hy vọng rằng một ngày nào đó xác thân
sẽ trôi giạt về Thái Bình Dương, tìm về chốn cũ.
Buổi
chiều, chúng tôi ra đường Võ Tánh, bây giờ là đường Bùi
Thị Xuân, đến chỗ quán Lục Huyền Cầm ngày xưa, tiện thể ghé thăm
Kim Huê luôn. Nhà cửa bây giờ kín mít suốt dọc con đường nhưng chúng tôi
vẫn có thể nhận ra vị trí của quán một cách dễ dàng.
Chúng tôi
đi qua đi lại mấy lần, bồi hồi nhớ lại đêm thơ nhạc đã đưa chúng tôi
đến với nhau. Hồi đó, Lê Uyên – Phương là một hình ảnh rất lý tưởng đối
với tuổi trẻ chúng tôi. Còn gì đẹp và lãng mạn hơn khi Phương đàn và
Lê Uyên hát những ca khúc của Phương trong không gian mờ ảo của Lục Huyền
Cầm và trong khi hát họ cứ đắm đuối nhìn nhau. Tôi mê nhất là những
lúc họ nhìn nhau.
Hôm ấy,
Cúc Hoa đến Lục Huyền Cầm dự đêm thơ nhạc theo lời mời của
tôi. Sau khi kết thúc, tôi đưa Hoa về. Trên đường về, chúng tôi đi
bộ vòng qua Khu Hòa Bình, ghé lại chỗ đường Đoàn Thị Điểm ăn
nhẹ một chút rồi chia tay. Kể từ hôm đó, Cúc Hoa đi bên cạnh
cuộc đời tôi cho đến bây giờ.
Chúng tôi
đi bộ dọc theo đường Hàm Nghi, ghé cà phê Tùng. Hồi đó, nếu đi với
bạn bè, chúng tôi đến quán Domino ở đường Phan Bội Châu, còn đi với
Cúc Hoa thì vào cà phê Tùng hoặc Thủy Tạ. Cà phê Tùng ngon nổi tiếng, và đá
chanh thì tuyệt, pha bằng một loại chanh có mùi thơm rất đặc biệt. Bây
giờ loại chanh ấy không còn. Chúng tôi vào, lặng lẽ ngồi
vào chỗ ngày xưa chúng tôi vẫn thường ngồi, gọi hai thứ mà hồi đó
chúng tôi thường gọi. Ở chỗ ngồi này, chúng
tôi đã có những giây phút tuyệt vời thuở mới quen
nhau. Những chiếc ghế da dọc theo tường vẫn còn đó nhưng tiếng
hát Christophe thì không còn. Christophe, ca sĩ người Pháp, một thời làm tuổi
trẻ chúng tôi ngây ngất với Main dans la main,
Aline, Mal, Maman, Je suis parti, Oh mon amour… bây giờ cũng đã thành dĩ
vãng. Biết chúng tôi là những người đi tìm kỷ niệm, anh Thông -
chủ nhân cà phê Tùng - ân cần tiếp chuyện, hướng dẫn nên chụp
hình ở góc nào, kể cho nghe những bước thăng trầm của quán, nhất
là giai đoạn sau 1975.
Rời cà
phê Tùng, chúng tôi tiếp tục thả bộ ra hồ Xuân Hương, ngồi bên
bờ hồ, nhìn sang cầu Ông Đạo... Buổi chiều thật êm đềm với một chút
sương mù đang nhẹ nhàng phủ xuống. Lòng chúng tôi cũng nhẹ nhàng
như khói sương kia. Đây là những phút giây hiếm hoi trong đời sống chúng
tôi nhiều năm qua.
Khi chúng
tôi ghé vào Thủy Tạ thì bên ngoài trời đã tối hẳn. Trời không lạnh lắm.
Chúng tôi chọn một chiếc bàn cạnh lan can nhìn xuống mặt hồ.
Hồi ấy chúng tôi thường lang thang trên Đồi Cù, đi dọc theo hồ Xuân Hương,
rồi ghé vào đây. Thủy Tạ bây giờ không khác hồi xưa bao nhiêu.
Tôi gọi cho mình một ly Hennessy và một ly cà phê sữa cho Cúc Hoa. Đây là
chỗ dừng chân cuối cùng trong ngày nên chúng tôi ở lại lâu hơn.
Một ngày
thật trọn vẹn với chúng tôi khi trở về Đà Lạt.
Từ Virginia,
Thiên Kim, Anh Kim, Quỳnh Anh vẫn theo dõi chuyến đi của chúng tôi, gọi
điện thoại về hỏi han mọi chuyện.
-
Ba má đang ở đâu?
-
Đang ở ngoài đường.
-
Ba má đã đến những chỗ cần phải đến chưa?
-
Đến rồi.
-
Má sao rồi?
-
Má rất vui và khỏe.
-
Ba má gặp cô Kim Huê chưa?
-
Gặp rồi.
-
Tìm cô Huê có dễ không?
-
Cũng không khó lắm.
…
Kim Huê
là bạn thân của Cúc Hoa hồi còn đi học. Nhà Huê ở gần quán Lục Huyền
Cầm. Ngoài Thuần ra, Huê là người biết nhiều về những kỷ niệm của
chúng tôi. Sau 1975, Huê vượt biên sang Mỹ, tìm gặp lại người yêu đã sang
trước bên đó. Hai người kết hôn và có với nhau ba đứa con. Khi chúng tôi mới
đến Mỹ, vợ chồng Huê đã có một cuộc sống khá ổn định, làm
chủ hai nhà hàng ở California. Thấy chúng tôi chân ướt chân
ráo, còn lúng túng về công ăn việc làm nơi xứ lạ quê người, Huê
ngỏ ý muốn giúp đỡ, nói cứ sang Cali rồi Huê sẽ lo liệu mọi việc
cho.
Kim Huê
mua vé máy bay gửi cho chúng tôi nhưng đúng vào ngày lên đường sang Cali thì
xảy ra vụ khủng bố September 11. Chuyến bay bị hoãn lại và chúng
tôi không thể đến Cali như dự định. Sau đó chúng tôi tìm
được việc làm ở Seattle nên thôi không sang chỗ Huê nữa nhưng
vẫn nhớ mãi tấm lòng của Huê dành cho chúng tôi trong lúc khó khăn.
Một
thời gian sau Huê thường gọi điện thoại cho Hoa tâm sự rằng cuộc sống gia đình bắt đầu sóng gió. Tưởng mọi
chuyện rồi sẽ qua, không ngờ tình hình càng ngày càng tồi tệ hơn
dẫn đến việc hai người phải chia tay. Huê
buồn rầu và lâm bệnh nặng, không còn khả năng tự chăm sóc mình.
Gia đình Huê phải đưa Huê về Đà Lạt để chăm sóc. Nhiều lần Cúc
Hoa gọi về thăm Huê nhưng không trò chuyện được vì Huê đã mất
khả năng giao tiếp.
Khi chúng
tôi vào, Huê chỉ ngồi im lặng, khuôn mặt ngơ ngác, thất thần, hoàn
toàn không bộc lộ cảm xúc, không mừng rỡ khi gặp lại người quen. Hỏi
người thân thì mới biết Huê sống một đời sống gần như thực vật.
Trang,
cháu của Huê, hỏi:
-
Cô Huê ơi, có nhớ ai đây không?
Khó khăn
lắm Huê mới ú ớ được một tiếng:
-
Hoa.
Trang hỏi
tiếp:
-
Hoa nào? Ở đâu?
Một lần
nữa, hết sức cố gắng, Huê nói:
-
Hai Bà Trưng.
Cầm tay
Huê, Cúc Hoa khóc, “Sao lại như thế này, Huê ơi!”.
Ngày xưa,
Huê cũng một thời áo trắng Bùi Thị Xuân cùng với Thúy Nga, với Thuần, với
Cúc Hoa, và một thời lãng mạn cùng núi đồi Đà Lạt. Huê đã có một mối tình thật
đẹp, vượt đại dương, đạp sóng dữ, liều chết để tìm lại
người yêu của mình. Không ngờ mọi thứ lại kết thúc với Huê một cách
buồn thảm như thế này. Chúng tôi gửi một chút quà cho Huê, góp một
phần rất nhỏ cùng gia đình chăm sóc Huê, và tự nhủ lòng
sẽ còn trở lại với Huê nhiều lần nữa.
Ngày tiếp
theo, chúng tôi xuống Đức Trọng thăm chị Tám, người đã cưu mang
chúng tôi trong những năm chúng tôi bắt đầu cuộc sống hôn nhân.
Hồi ấy,
chị Tám và năm đứa con còn trong độ tuổi đi học sống trong một căn
nhà không lớn lắm. Chồng chị chết sớm và chị ở vậy nuôi con.
Chị hiền lành, phúc hậu, và tốt bụng vô cùng. Chị ngăn vách làm
một chỗ ở cho Cúc Hoa và tôi, có bếp và lối đi riêng. Chị không
cho chúng tôi đóng góp bất cứ khoản tiền bạc nào trong suốt những năm
tháng ở đó. Chị giúp chúng tôi có thêm việc làm, dành dụm
để sau này có thể mua nhà. Sáu năm sau, chúng tôi mua
được căn nhà đầu tiên của mình.
Người xưa
nói “Ở hiền gặp lành” nhưng chị Tám ở hiền mà không
gặp lành. Cách đây gần 20 năm, trong một lần thăm bà con ở Bình
Thuận, xe đò bị lật. Chị gãy cột sống và từ đó đến nay hai chân
bị liệt, phải di chuyển bằng xe lăn. Nhiều năm qua chúng tôi vẫn mong
có một lần gặp lại chị. Tội nghiệp chị, gần hai mươi năm phải ngồi một chỗ, đau
khổ biết chừng nào.
Chúng tôi
muốn dành cho chị một sự bất ngờ nên không báo trước. Vừa bước
vào nhà, chị nhận ra ngay, trố mắt nhìn rồi bật khóc, “Hai em
về hồi nào? Chị không ngờ có ngày gặp lại hai em”.
Chị hỏi thăm rất nhiều về Thiên Kim, vì Thiên Kim lớn lên trong căn
nhà của chị. Nhìn chị ngồi trên xe lăn thấy thương chị quá.
Tôi ước gì có một phép màu làm cho đôi chân của chị bình thường
trở lại. Nhớ lại tai nạn đã xảy ra cho Cúc Hoa hồi tháng ba năm
ngoái, tôi nghĩ mình vẫn còn may mắn. Từ sự may mắn đó, chúng
tôi thấy mình cần phải chia sẻ nhiều hơn những bất hạnh của người
khác, nhất là bạn bè và người thân của mình. Chia tay chị mà lòng buồn vời
vợi. Lên xe rồi vẫn ngoái đầu nhìn lại. Chị ngồi trên xe lăn, vẫy tay,
nước mắt lưng tròng.
Những
ngày tiếp theo, chúng tôi tiếp tục lang thang cùng khói cùng sương
cùng núi đồi Đà Lạt. Ngày của chúng tôi bắt đầu bằng
chỗ ngồi ở cà phê Tùng, sau đó vòng xuống bờ hồ, rồi tiếp
tục đi. Đi đâu cũng được, miễn là Đà Lạt.
Chúng tôi
tìm đến những con đường mà hồi đó có nhiều kỷ niệm: Duy Tân, Minh Mạng,
Yersin, Phan Đình Phùng… Phan Đình Phùng là con đường chúng tôi
nhớ nhiều nhất. Đường này song song với đường Hai Bà Trưng. Từ nhà
Cúc Hoa sang đây có một lối đi tắt rất gần, và tôi thường đón Cúc
Hoa ở đó.
Chúng tôi
chỉ có một tuần ở Đà Lạt nên Đà Lạt rất gần mà cũng rất
xa. Chúng tôi nâng niu từng ngày còn lại, cứ sợ ngày sẽ qua mau.
Chúng tôi đi bộ nhiều, lên những bậc tam cấp rất cao
nhưng Cúc Hoa không thấy mệt, dấu hiệu cho thấy
sức khỏe đã khá ổn định. Đây là điều tôi mừng nhất. Chúng tôi đã tìm
lại được những thứ cần phải tìm, đi được những nơi cần phải đi, đến được
những nơi cần phải đến, thăm được những người cần phải thăm.
Giờ thì
đã đến lúc phải chia tay Đà Lạt. Chia tay những con đường in dấu
chân xưa . Chia tay rừng thông và cỏ cây sương khói. Chia tay mây trời
và gió núi Langbiang. Mong bình yên đến với Kim Huê và những
người ở lại. Mong một ngày về dù chưa biết khi nào.
Xe xuống
đèo Prenn. Đà
Lạt lùi dần về phía sau. Trong tôi bồi hồi một cảm xúc buồn vui lẫn
lộn, còn Cúc Hoa thì mơ màng nhìn qua cửa xe, mắt đỏ hoe. Chợt
nhớ hai câu thơ của Trần Hoài Thư.
khi
về biết chở gì theo.
chở theo
vạt nắng trên đèo vào xe
Ừ, thì
chở theo chút nắng vàng của Đà Lạt về nơi viễn xứ, sưởi ấm lòng
mình trong những ngày tháng tha phương…./.
2012
Phạm Cao Hoàng
Ghi chú: tên của các nhân vật trong truyện là tên
thật.