Saturday, June 10, 2017

2910. THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu NGƯỜI KỂ CHUYỆN, truyện ngắn của nhà văn Anh Hector Hugh Munro (bút hiệu SAKI, 1870-1916)





SAKI thường áp dụng thủ pháp "truyện trong truyện". Truyện nhỏ thứ nhất được cài vào là của bà dì, ngắn gọn tới mức nhạt nhẽo, bị hai đứa cháu cho là ngớ ngẩn. Truyện nhỏ thứ hai do nhân vật "chàng độc thân" kể, ly kỳ, hấp dẫn trẻ con, với đủ thứ cỏ cây hoa lá, thú vật trong vườn, trên rừng, dưới nước... Tuy nhiên, khác với điều mọi người mong đợi, cái kết có vẻ khó chấp nhận: nhân vật bé gái được giới thiệu là "tốt khủng khiếp", sạch sẽ, giỏi giang, đúng giờ, ngoan ngoãn..., cuối cùng bị giết vì những điều tốt đó. Còn truyện chính kể về mấy dì cháu trên một toa tàu, bên cạnh có một khách lạ. Năm con người cùng sinh hoạt, chỉ có cậu con trai có tên. Không ai biết mấy dì cháu đi đâu, để làm gì. Trong không gian giới hạn đó, mọi tình tiết diễn ra trong một khoảng thời gian cũng giới hạn là chừng một tiếng đồng hồ, kết thúc khi nhân vật "chàng độc thân" xuống tàu. Vậy mà chân dung mỗi nhân vật với tâm lý, tính cách, ngôn ngữ, thái độ, đều bộc lộ rõ cả. Nhan đề "Người kể chuyện" có thể khiến người đọc liên tưởng tới cổ tích, thần thoại. Đúng, mà không đúng. Truyện chứa nhiều ẩn dụ, nhiều chi tiết gắn với thời đại, gợi cho người đọc suy nghĩ, đặt vấn đề và tự lý giải lấy. Và tất nhiên, không thể thiếu yếu tố hài hước, nét quen thuộc nơi ngòi bút của SAKI.   

Buổi chiều nóng nực, toa tàu do vậy mà rất oi bức, trạm dừng tiếp theo là Templecombe, còn gần một tiếng nữa mới tới. Khách trong toa gồm một bé gái, một bé gái nhỏ hơn và một bé trai. Một người dì của bọn trẻ chiếm ghế ngồi trong góc, ghế ở góc bên kia có một anh chàng độc thân, không đi cùng với nhóm này, nhưng hai bé gái và cậu trai rõ ràng là chiếm cả toa tàu.  Bà dì và đám trẻ mải mê trong lối nói chuyện hạn chế, dai dẳng,  gợi ta nhớ tới những lúc quan sát một con ruồi không chịu để người ta làm cho nản lòng. Phần lớn nhận xét của bà dì có vẻ bắt đầu với "Các cháu đừng ..." còn bọn trẻ lại cứ nói "Tại sao?". Chàng độc thân không nói gì.

"Đừng, Cyril, đừng cháu! ", bà dì la lên khi đứa con trai đập vào nệm chiếc ghế băng làm bụi bay tung toé.
" Cháu đến nhìn ra ngoài cửa sổ kìa! " bà nói tiếp.

Thằng bé miễn cưỡng tiến gần cửa sổ. "Tại sao người ta lại đuổi mấy con cừu kia ra khỏi cánh đồng?" nó hỏi.

"Dì nghĩ là chúng được đưa tới cánh đồng khác có nhiều cỏ hơn.", bà dì đáp không chắc chắn lắm.
"Nhưng nơi đồng này vẫn có nhiều cỏ mà dì" , thằng bé cãi lại. "Chỉ cỏ thôi chẳng có gì khác. Đồng này nhiều cỏ lắm dì ơi."
"Có thể cỏ bên đồng kia tốt hơn", bà dì gợi ý hú hoạ.
"Tại sao lại tốt hơn? ", câu hỏi có sẵn vụt ra ngay.
"Ôi! Nhìn mấy con bò kìa! bà dì thốt lên. Hầu như cánh đồng nào dọc theo đường sắt cũng có nhiều bò lớn bò nhỏ, bà nói như muốn kéo sự chú ý đến một thứ hiếm có.
"Tại sao cỏ bên đồng kia lại tốt hơn?", Cyril vẫn khăng khăng.

Vẻ nghiêm nghị trên khuôn mặt chàng độc thân chuyển thành nét cau có. Bà dì đinh ninh trong đầu, anh chàng này hắc ám, khó ưa. Bà không thể dứt khoát đưa ra một câu trả lời thuyết phục nào về cỏ trên đồng kia.
  
Đứa bé gái nhỏ muốn đánh lạc hướng bằng cách ngâm bài thơ "Trên đường đến Mandalay" (1). Nó chỉ thuộc câu thứ nhất nhưng muốn tận dụng hết kiến thức hạn hẹp của mình. Nó lặp đi lặp lại câu thơ không phải mơ hồ mà bằng một giọng dứt khoát, dễ nghe, chàng độc thân nghĩ chắc là có ai đánh cược để con bé đọc câu thơ hai ngàn lần không nghỉ. Cho dù người đánh cược là ai cũng phải thua thôi.

"Cháu đến đây nghe dì kể chuyện này!", bà dì nói, trong khi chàng độc thân nhìn bà hai lần rồi nhìn dây báo hãm tàu một lần. 

Bọn trẻ thẫn thờ di chuyển về phía chỗ bà dì ở cuối toa. Rõ ràng là chúng không xếp hạng cao khả năng kể chuyện của bà.
  
Bằng một giọng nói nhỏ nhẹ riêng tư, thường xuyên bị ngắt quãng bởi những câu hỏi ồn ào nôn nóng của bọn trẻ, bà bắt đầu một câu chuyện chẳng chút sáng tạo và buồn tẻ đến thảm hại về một đứa bé gái hiền lành, thân thiện với nhiều người nhờ tính tốt đó và cuối cùng được những người mến mộ đức tính của nó mà cứu nó thoát khỏi một con bò điên.

"Họ có cứu con bé không nếu nó không tốt như thế? "đứa bé gái lớn hỏi. Và đó cũng là câu mà anh chàng độc thân muốn hỏi.
"À, vâng", bà dì thú nhận yếu ớt, "nhưng dì  không nghĩ là họ có thể chạy nhanh đến cứu như thế nếu họ không thích con bé."

"Đây là câu chuyện ngớ ngẩn nhất cháu từng được nghe! ", bé gái lớn nói, giọng đầy tự tin.
" Chỉ sau đoạn thứ nhất là cháu không thèm nghe nữa, thật ngớ ngẩn", Cyril nói.

Bé gái nhỏ không bình luận cụ thể gì về câu chuyện, nhưng từ trước nó đã thầm thì đọc lại câu thơ ưa thích của mình.
"Có vẻ bà là người kể chuyện không thành công lắm! ", anh chàng độc thân bất ngờ lên tiếng từ chỗ ngồi trong góc.

Bà dì bật lên phản ứng ngay lập tức trước sự tấn công bất ngờ đó.
"Khó mà kể được những chuyện khiến trẻ con vừa hiểu lại vừa thích.", bà nói gượng.
" Tôi không đồng ý vậy đâu", anh độc thân nói.
" Có lẽ anh muốn kể cho chúng nghe một chuyện!", bà vặn lại.
" Chú kể cho bọn cháu nghe đi! ", con bé lớn yêu cầu.
" Ngày xửa ngày xưa", chàng độc thân bắt đầu,"có một bé gái tên là Bertha, nó đặc biệt tốt."

Sự quan tâm bùng phát nhất thời của bọn trẻ bỗng lắng xuống tức thì, chuyện nào cũng giống nhau thật thê thảm, dù người kể là ai.

Ai bảo sao nó làm vậy, nó lúc nào cũng thật thà, giữ quần áo sạch sẽ, ăn bánh sữa ngon lành như bánh nhân mứt, bài học nào cũng thuộc làu làu và cư xử lễ phép.

"Nó có xinh không?" bé gái lớn nhất hỏi.
"Không xinh bằng cháu nào ở đây", chàng độc thân nói, "nhưng nó tốt khủng khiếp."

Làn sóng ủng hộ câu chuyện nổi lên, cái từ "khủng khiếp "đi đôi với "tốt" là một sáng tạo tự nó đáng được khen ngợi. Có vẻ như điều đó đem đến điểm nhấn về sự thật lâu nay vắng bóng trong những câu chuyện tuổi thơ của bà dì.

"Nó tốt đến nỗi", chàng độc thân kể tiếp, "nó đạt được nhiều huy chương về tính tốt của mình,lúc nào nó cũng đính vào áo mang theo. Có huy chương về vâng lời, huy chương về đúng giờ, và huy chương thứ ba là hạnh kiểm tốt. Đó là những huy chương lớn bằng kim loại, chúng chạm vào nhau kêu leng keng khi cô bé bước đi. Trong thành phố cô bé sống không có trẻ nào có được nhiều huy chương như thế nên mọi người đều biết nó phải là một đứa trẻ đặc biệt tốt."
"Tốt khủng khiếp!"Cyril dùng lại từ này.
"Ai ai cũng nhắc đến tính tốt của cô bé, và Hoàng tử của xứ này cũng nghe tiếng, ông nói rằng vì cô bé tốt như thế nên mỗi tuần một lần cô được phép đi vào trong công viên của hoàng tử, chỉ bên ngoài thành phố thôi. Công viên này tuyệt đẹp, và trẻ con không ai được phép vào đó, bởi thế đó là vinh dự lớn của Bertha khi được phép vào.
  
Bà dì tự cho phép mình mỉm cười, mà có thể hiểu là mỉa mai.

"Trong công viên không có cừu", chàng độc thân nói," vì mẹ của hoàng tử có lần nằm mơ thấy hoàng tử sẽ chết hoặc vì cừu hoặc vì bị chiếc đồng hồ rơi vào người. Chính vì lý do đó mà hoàng tử không bao giờ nuôi cừu trong công viên hay treo đồng hồ trong cung điện."

Bà dì cố ngăn cử chỉ thán phục.

"Hoàng tử có bị cừu hay đồng hồ giết chết không?", Cyril hỏi.
"Hoàng tử vẫn còn sống, nên ta không thể nói giấc mơ có thành sự thực không", chàng độc thân hờ hững nói," dù sao, bây giờ trong công viên không có cừu,  nhưng có rất nhiều con heo nhỏ chạy  khắp nơi."
"Chúng màu gì?"
"Màu đen mặt trắng, màu trắng đốm đen, đen tuyền, màu xám với miếng vá trắng, có vài con trắng toàn thân."

Người kể chuyện ngừng lại để cho ý tưởng trọn vẹn về kho báu của công viên chìm vào trí tưởng tượng của bọn trẻ, rồi tiếp tục:

"Bertha rất tiếc khi thấy trong công viên không có hoa. Mắt đẫm lệ, nó đã hứa với các bà dì là sẽ không hái bất kỳ loại hoa nào trong công viên của Hoàng tử, và nó cố giữ lời, bởi vậy không có hoa nào để hái làm nó ngơ ngẩn cả người."
"Tại sao lại không có hoa?"
"Vì heo ăn sạch cả", chàng độc thân đáp vội." Những người làm vườn nói với Hoàng tử là không thể vừa có heo vừa có hoa, cho nên hoàng tử quyết định chỉ nuôi heo mà không có hoa."

Có tiếng xì xào tán thưởng quyết định xuất sắc của hoàng tử, nhiều người có thể quyết định cách khác.
  
"Có rất nhiều thứ thú vị khác trong công viên. Có những chiếc ao với cá vàng cá xanh cá lục trong đó, có những cây với những con chim vẹt xinh đẹp hót lên những điều khôn ngoan ngay khi nghe tiếng nói, và những con chim ruồi cứ vo ve những âm điệu quen thuộc trong ngày. Bertha cứ đi lên đi xuống, thấy thích thú lắm và tự nhủ: Nếu mình không tốt đặc biệt đến mức này thì mình sẽ không được phép đến công viên xinh đẹp này để tận hưởng tất cả những gì đáng xem ở đây, ba chiếc huy chương của nó chạm vào nhau kêu leng keng mỗi khi nó bước đi và nhắc nhở cho nó biết nó  thực sự tốt đến mức nào. Ngay lúc này một con chó sói đang lãng vãng trong công viên để rình xem có thể bắt được con heo con béo mập nào để ăn tối không."
"Nó màu gì?" bọn trẻ hỏi, quan tâm tức thì và nhanh chóng.
"Khắp người màu bùn, lưỡi đen và mắt xám nhạt loé sáng vẻ hung dữ khó tả. Thứ đầu tiên mà con sói nhìn thấy trong công viên là Bertha, cô bé mặc chiếc áo trắng tinh và sạch sẽ không tì vết khiến có thể nhìn thấy được từ rất xa. Bertha nhìn thấy con chó sói và thấy nó đang lẻn tới phía nó, và bắt đầu ước phải chi nó đã không được phép đi vào công viên. Cô bé vùng chạy thật nhanh, con sói vụt nhảy rượt theo. Cô bé cố chạy đến một bụi sim và tìm chỗ nấp vào bụi cây rậm nhất. Chó sói đến ngửi vào mấy cành cây, lưỡi lè ra khỏi miệng, và đôi mắt xám nhạt láo liên hung dữ. Bertha hoảng sợ kinh hồn và thầm nghĩ: "Nếu mình không tốt đặc biệt thế này thì bây giờ đã an toàn ngoài thành phố." Tuy nhiên mùi hương bụi sim đậm đến nỗi con chó sói không ngửi được Bertha nấp chỗ nào, và bụi cây rậm đến nỗi nó tìm rất lâu mà không phát hiện ra cô bé, sói nghĩ là nên bỏ đi tìm bắt một con heo nhỏ thay vào.  Bertha run cả người vì con chó sói rình mò và ngửi gần nó đến thế, và vì nó run nên chiếc huy chương vâng lời chạm kêu leng keng vào những chiếc huy chương hạnh kiểm tốt và đúng giờ. Con sói vừa mới bỏ đi thì nghe tiếng những chiếc huy chương leng keng nên dừng lại lắng tai nghe, chúng lại kêu lần nữa nơi bụi cây gần chó sói. Nó lao tới bụi cây, đôi mắt xám nhạt loé lên hung dữ và đắc thắng, nó lôi Bertha ra và nhai ngấu nghiến cô bé đến miếng cuối cùng. Những gì còn sót lại là đôi giày, mấy mẩu quần áo và ba chiếc huy chương bằng kim loại vinh danh cái tốt."

"Có con heo con nào bị giết không?" Không, chúng thoát được hết."
"Câu chuyện mở đầu thì tồi tệ", bé gái nhỏ nói, "nhưng kết thúc thật tuyệt vời!"
"Đây là câu chuyện đẹp nhất cháu từng nghe", bé gái lớn nói, giọng quả quyết.
"Đây là câu chuyện đẹp duy nhất cháu được nghe", Cyril nói.

Chỉ bà dì có ý kiến không tán thành.

"Một câu chuyện không phù hợp nhất đem ra kể cho trẻ con! Ông đã huỷ hoại kết quả của bao nhiêu năm giáo dục cẩn trọng."

"Dù sao đi nữa", anh chàng độc thân vừa sắp xếp hành lý chuẩn bị xuống ga vừa nói, "tôi đã giữ các cháu ngồi yên trong mười phút, lâu hơn thời gian bà có thể làm."

"Người phụ nữ tội nghiệp! ", chàng nhủ thầm khi đi dọc theo sân ga ở Templecombe, "khoảng chừng sáu tháng tới đây, mấy đứa trẻ này sẽ công khai yêu cầu bà kể một chuyện không phù hợp". 
 _______________________________________________
On the Road to Mandalay, tên bài thơ của Rudyard Kipling.

THÂN TRỌNG SƠN
Tháng 5.2017
dịch từ nguyên tác The Story–teller của Saki
(Saki là bút hiệu của nhà văn Anh Hector Hugh Munro)