Trong ảnh: Thuần - Photo by
PCH
Virginia, August 5, 2011
Thuần
là nhân vật có thật trong truyện MƠ CÙNG TÔI GIẤC MƠ ĐÀ LẠT, hiện đang sống ở New Orleans – tiểu bang
Louisiana. Bài viết mà chúng tôi giới thiệu dưới đây do chính Thuần viết vào tháng
2.2014, kể lại chuyện tình của mình – một chuyện tình lãng mạn, đẹp và chung
thủy. PCH
Chồng tôi bỏ tôi ở lại để đi vượt biên sau khi lấy nhau đúng
một năm.. Tôi không hề nghĩ là anh ấy sẽ ra đi mà không nói với tôi một lời.
Khi chị An, chị thứ năm của chồng tôi nói, "Cậu Thịnh đi rồi, mợ biết
không?" tôi tưởng là mặt đất vừa sụp lở dưới chân mình. Tối hôm đó, nằm
trên giường mà không ngủ được, nhìn lên bức tường trống trải, cái áo của nhà
tôi còn đó, nước mắt tôi ứa ra; những khổ đau và hạnh phúc mà tôi đã đọc được
trong tiểu thuyết, tôi tưởng đó chỉ là những tình cảm không hề có thật,
chỉ là những gia vị mà mấy ông nhà văn đã thêm thắt vào câu chuyện, nhưng bây
giờ tôi biết rằng nó có thật, và rất thật trong tôi.
Anh là người bạn trai đầu tiên của tôi khi tôi mới 15 tuổi.
Bây giờ anh vẫn chọc tôi :" Em tuy mới mười lăm mà đã lắm người
thăm..." Lúc đó anh đang theo học khoá 2 trường Đại Học Chiến Tranh Chính
Trị Đà Lạt. Thực ra, bảo là yêu nhau nhưng bấy giờ tôi cũng chẳng biết gì. Sau
khi anh ra trường, chúng tôi có liên lạc thư từ trong một thời gian rồi lãng đi
như tất cả những mối tình học trò khác.
Sau 1975, gia đình tôi về Sài Gòn. Ở Sài Gòn đôi khi tôi có
nhớ tới anh, nhưng tôi không hề có ý định tìm gặp anh. Anh đã là dĩ vãng. Tôi
tiếp tục đi học và tốt nghiệp Cử nhân Sinh Hóa. Tôi đi làm việc ở Phan Thiết.
Trong một chuyến đi công tác, tôi gặp lại anh trong một trại cải tạo. Lúc đó
anh đã được về và làm việc với một nhà thầu đang xây cất một nhà kho lương thực
cho trại này. Gặp lại anh, tôi nhận ra ngay cho dù anh không còn là một
"chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, xếp bút nghiên theo việc đao cung"
nữa, mà là một người trung niên gầy gò bước đi phải nhờ vào cây gậy chống, kết
quả của lao động nặng, bệnh sốt rét và suy dinh dưỡng sau nhiều năm cải tạo.
Anh cũng đã nhận ra tôi. Tối hôm đó, tôi trằn trọc không sao ngủ đưọc. Tôi suy
nghĩ rất nhiều về mọi chuyện, nhưng tôi quyết định sẽ lấy anh mà không bận tâm
về quãng đời quá khứ cũng như thân phận hiện tại của anh.
Khi mẹ tôi biết ý định của tôi, mẹ tôi phản đối. Bây giờ, tôi
hiểu được rằng chẳng có một bà mẹ nào vui vẻ chấp nhận khi đứa con gái cưng của
mình từ chối nhiều cuộc theo đuổi khác để lấy một người mà mẹ tôi cho là
"không có gì...". Tôi bỏ làm ở Phan Thiết về Saigon. Sau hơn 2 năm
với thật nhiều nước mắt của tôi, mẹ tôi nhượng bộ và cho chúng tôi làm đám
cưới.
Một năm trời sống với nhau, cho dù có vất vả lo toan, chúng
tôi rất hạnh phúc. Anh ra đi bỏ tôi lại một mình, tôi hụt hẫng biết chừng nào.
Trong suốt hai tháng trời tôi không nhận được tin tức gì của anh và của các
chú. Cho đến một ngày, mẹ chồng tôi đến chợ nhỏ ở Hàng Xanh nơi tôi bán vải,
cho biết cụ đã nhận được tin anh và mọi người đã đến trại tỵ nạn Galang,
Indonesia bình an. Đưa mẹ chồng tôi ra xích lô về lại Hoà Hưng, tôi dọn hàng về
nhà mẹ tôi, tôi đã về ở với mẹ lại từ ngày anh đi. Trên đường đạp xe về nhà,
nuớc mắt tôi không ngừng rơi. Thôi thế là hết. Tôi không biết tôi đã mong muốn
điều gì. Tôi mong cho anh đi thoát hay tôi mong cho anh bị kẹt lại đâu đó? Bây
giờ thì tôi biết, cuộc hẹn hò gặp nhau lại ở Mỹ không đơn giản và dễ dàng như
hẹn gặp nhau lại ở chợ Bến Thành.
Cả tháng sau khi biết anh đi thoát, tôi mới nhận được thư của
anh. Buổi trưa hôm đó, ở chợ về nhà, Quang mở cửa cho tôi và nói, " Có thư
của chú Thịnh". Quang là con của chị Thành, chị kế tôi, nhưng các cháu ít
khi gọi tôi là dì mà thường gọi là cô. Tôi cầm lá thư, bước lên lầu. Đọc thư
anh, tôi khóc từ chữ đầu tiên đến chữ cuối cùng, sau đó tôi tha thứ cho anh.
Trong thư anh giải thích tại sao ra đi không từ biệt tôi. Anh biết chắc chắn là
tôi sẽ khóc, anh sợ nước mắt tôi sẽ làm mềm lòng khiến anh ở lại. Nếu anh ở lại
thì làm sao mà có cơ hội ra đi nữa. Cho đến bây giờ không còn lá thư đó trong
tay, tôi vẫn nhớ y nguyên lời anh viết " Anh có thể làm nhiều điều khiến
cho người ta ghét, nhưng anh không thể làm điều gì khiến cho người ta khinh. Nợ
tiền bạc anh có thể trả nhưng nợ ân tình thì khó cho anh sòng phẳng, mong em
đừng lo ngại anh sẽ làm điều gì có lỗi với em".
Thế là tôi bắt đầu cuộc ra đi "tìm chồng tôi" rất
sớm, từ khi anh hãy còn ở trại tị nạn Galang. Vài tháng sau đó, anh Hưng, chồng
chị An và chú Bảo, em anh Hưng tổ chức một chuyến đi từ Rạch Giá. Tôi gom góp
vốn liếng mà tôi dành dụm được hơn một năm buôn bán ở chợ để tham gia chuyến
đi. Chuyến đi không thành, tôi bị bắt và tù 3 tháng ở Rạch Giá. Sau đó tôi
không thể nhớ là mình đã đi bao lần nhưng tôi đã ở tù thêm hai lần nữa: một
lần, một năm ở Cần Thơ, lần khác là 1 tháng ở Kampuchea. Cuối cùng thì tôi cũng
đến được Mỹ.
Đến Mỹ với một vài bộ quần áo và một ít tiền mà anh gởi qua
Thái Lan cho tôi. Vốn liếng tiếng Anh chỉ là hai chữ " yes" hay
"no" mà đôi khi còn dùng không đúng lúc. Bây giờ tôi đã có "tất
cả những gì mà một người Mỹ bình thường ước mơ để có”. Đôi khi nhớ lại ngày
xưa, tôi đã từng ao ước chỉ một túp lều tranh cũng được, để tôi và anh có một
tổ ấm riêng tư. Bây giờ, nhìn lại cơ ngơi của mình , tôi còn ao ước gì hơn.
Tấm hình này tôi gởi tặng anh sau khi
anh ra trường, vào Thiết giáp và đóng quân ở vùng 4. Mười năm sau, khi gặp lại,
anh vẫn còn giữ được nhưng lại đánh mất lúc vượt biên. Tôi có lại được tấm hình
này là nhờ Hoa, một người bạn thân từ nhỏ, Hoa đi bảo lãnh và mang theo. Khi
tôi tìm lại được Hoa sau hơn 30 năm thất lạc, Hoa tặng lại cho tôi. Cám ơn Hoa
và anh Hoàng.
Thuần
February 2014