Tuesday, April 21, 2015

1647. THÂN TRỌNG SƠN Dịch và giới thiệu thơ CỐ THÀNH ( Nhà thơ Trung Quốc)


   
 



Sinh năm 1956, cha là Cố Công, nhà thơ, nhà báo nổi tiếng, phụ trách biên tập Giải Phóng Quân Báo, sống tại khu Bắc Hải, thành phố Bắc Kinh. Thuở nhỏ chỉ đi học được ba năm ( 1963 - 1966 ) thì phải bỏ học khi cuộc cách mạng văn hoá bùng nổ. Thời gian này, Cố Công bị đưa về một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Sơn Đông, mang theo gia đình, sinh sống bằng việc nuôi heo, kiếm củi.
   
Năm 1974, gia đình trở về Bắc Kinh. Cố Thành làm thợ mộc và những việc linh tinh khác.
  
Năm 1979, trên chuyến tàu từ Thượng Hải đi Bắc Kinh, Cố Thành gặp nhà thơ trẻ xinh đẹp Tạ Diệp, tiếng sét ái tình ập xuống hai người. Sau khi trở về, họ trao đổi thư từ với nhau trước khi quyết định kết hôn vào năm 1983, mặc dù gia đình cô gái không đồng ý.
  
Cố Thành tham gia nhóm nhà thơ chủ xướng phong trào " mông lông thi " của Bắc Đảo và Mang Khắc, xuất hiện trên tạp chí Thiên Kim của nhóm này. Các nhà thơ mông lung bắt đầu nổi tiếng. Cố Thành được mời dự nhiều cuộc hội họp, đọc thơ, ở trong nước và cả ở các thành phố châu Âu ( Bonn, Vienna, Paris, London... ), lúc nào cũng có Tạ Diệp đi cùng. Chẳng bao lâu, thơ mông lung bị các nhà bảo thủ công kích. Tạp chí Thiên Kim bị đóng cửa sau hai năm hoạt động. Năm 1986, Cố Thành tham gia một buổi sinh hoạt thơ tại Bắc Kinh và gặp phải những ý kiến chê trách nặng nề của các nhà thơ trung thành với thơ ca truyền thống. Một nữ sinh viên, Lý Anh, lên tiếng bênh vực, hai người thân nhau từ đây. Ban đầu, Cố Thành không có ý theo đuổi Lý Anh nhưng cô gái lại muốn tiến xa hơn. Năm 1987, vào đêm hôm trước lúc vợ chồng Cố Thành đi châu Âu, Lý Anh đến nhà và bày tỏ tình cảm của mình trước mặt Tạ Diệp.
 
Năm 1988 Cố Thành và Tạ Diệp sang sống tại New Zealand: Cố Thành được mời dạy đàm thoại tiếng Trung tại Đại học Auckland. Vào lớp, Cố Thành ngồi lặng lẽ nhìn sinh viên, chờ họ nói. Về phía sinh viên, họ cũng im lặng chờ thầy lên tiếng. Rốt cuộc sinh viên không học được gì nên không đến lớp nữa. Sự việc bị phát hiện và Cố Thành bị sa thải. Sau đó, cả hai chuyển đến một căn nhà tồi tàn không có điện nước tại Waiheke, một đảo nhỏ trong vịnh Auckland. Một cuộc sống khép kín, tách rời với xã hội, họ sinh đứa con trai đặt tên là Mộc Nhĩ, tên loài nấm mọc trên gỗ mục, sống qua ngày bằng cách nhặt sò hến, hái lượm trái cây, rau củ hoặc làm những vật dụng thô sơ bằng gốm để mang ra chợ bán.
  
Hầu như họ không giao tiếp với ai, Cố Thành không chịu học tiếng Anh hoặc bất kỳ một ngôn ngữ nào khác. Khó khăn lại càng tăng thêm khi Cố Thành bỗng nhiên muốn thuyết phục Tạ Diệp để đưa Lý Anh sang chung sống. Năm 1990, Lý Anh bay sang đảo Waiheke, với toàn bộ chi phí về thủ tục và di chuyển do Tạ Diệp đài thọ. 
  
Cuộc sống trên đảo của gia đình tay ba chẳng dễ chịu chút nào do thu nhập quá ít ỏi và do những cơn bốc đồng, giận dỗi, cãi vã của Cố Thành. Năm 1992, Cố Thành được mời sang Berlin ( Đức ) theo một chương trình trao đổi văn hoá, cả Tạ Diệp và Lý Anh đều cho đây là lối thoát cho mọi người. Hai vợ chồng quyết định bay sang Berlin, ( thật ra chỉ vì muốn kiếm ít tiền về sửa nhà ). Lý Anh vẫn ở lại Waiheke chờ đợi. Nhưng rồi Cố Thành ngày càng tỏ ra trầm uất và hoang tưởng.  Anh nói muốn mua súng, và có lần tìm cách bóp cổ Tạ Diệp. Lại có lúc anh nói sẽ rất vui nếu bị Tạ Diệp giết. Cuối cùng anh phải vào bệnh viện tâm thần nhưng mấy ngày sau phải trở ra vì Tạ Diệp tỏ ý không muốn trả viện phí và không chịu trách nhiệm về anh.    Một năm sau, đúng vào ngày sinh nhật thứ 37 của Cố Thành, hai vợ chồng trở về New Zealand thì Lý Anh đã bỏ đi. Ngày 8/10/1993, Cố Thành dùng rìu hạ sát vợ rồi treo cổ tự tử.
   
Cuộc đời ngắn ngủi của Cố Thành thật là ly kỳ, trang phục của anh cũng kỳ lạ không kém: ở đâu và lúc nào anh cũng đội chiếc mũ hình trụ, may từ ống quần jean cắt ra. Tại sao không chịu rời chiếc mũ ra? Anh giải thích đội như thế để ý tưởng không thoát ra khỏi đầu! Tạ Diệp cho biết thêm là ngay cả khi ngủ anh cũng không bỏ mũ ra, để những giấc mơ không bay ra ngoài được! Còn chuyện anh làm thơ chắc hẳn cũng khiến nhiều người ngạc nhiên: làm thơ ngay từ lúc chưa biết chữ. Khi mới lên sáu, một hôm cùng gia đình đi vào rừng, Cố Thành nhìn thấy một cành cây gãy vì bị mục rỗng mấy lỗ, anh bất ngờ bật lên hai " câu thơ ". Người chị là Cố Hương về nhà ghi lại, và đây được xem như bài thơ đầu tiên của Cố Thành còn được lưu giữ:

CÂY DƯƠNG

Mất một cánh tay
Tôi mở to con mắt.

Bài thơ TRĂNG SAO TỪ ĐÂU TỚI? cũng ra đời trong hoàn cảnh tương tự. Những năm khốn khó cùng gia đình chăn heo tại Sơn Đông là thời gian nguồn thi hứng của Cố Thành phát tiết mạnh mẽ."Ngẫu hứng cùng cuộc đời" và " Tụng ca thế giới " viết năm 1971 bộc lộ khuynh hướng thả trí tưởng tượng bay bổng theo vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên với bướm hoa, núi rừng, sông biển... Sự hồn nhiên, chân thật trong thơ của anh là một làn gió mới, tinh khôi, tươi mát, giữa không khí nặng nề, khốc liệt của thời cuộc. Cũng vào thời gian này, các nhà thơ trẻ như Bắc Đảo, Mang Khắc, Thư Đình bắt đầu sáng tác, báo hiệu cho trường phái " thơ mông lung " nổi đình nổi đám một thời gian.
    
Sau này, Cố Thành tiết lộ anh chịu ảnh hưởng nhiều từ Henry Fabre, nhà côn trùng học người Pháp với những bài viết và tranh vẽ, trong đó những sự vật nhỏ bé trong môi trường tự nhiên được quan sát và mô tả với cảm xúc của người chiêm ngưỡng, chứ không phải là nhà khoa học. Học theo thần tượng của mình, Cố Thành sưu tập côn trùng, ngắm nhìn chim chóc, và lấy cảm hứng để viết. " Tôi nghe thấy một tiếng động kỳ bí trong thiên nhiên. Tiếng động này biến thành thơ trong đời tôi."  " Điều gì đã đưa tôi đến với thơ? Một giọt mưa. Trên đường đi học hàng ngày, tôi thường đi ngang qua một cây thông. Một hôm, hẳn là sau cơn mưa, cảnh vật mát mẻ, trong lành. Và bỗng nhiên cây thông loé sáng với những giọt mưa lung linh bám vào cành và lá. Tôi thấy trong mỗi giọt mưa có vô số cầu vồng đang chuyển động, dưới bầu trời xanh tuyệt đẹp. Tôi nhận ra rằng mỗi giọt mưa bé nhỏ chứa cả vũ trụ. Cái thế giới chói loà trong mỗi giọt nước trong lành và xinh đẹp hơn cái thế giới ta đang sống. Thơ là một giọt nước mưa lấp lánh trên cành cây của lý tưởng." ( Ý tưởng này khiến ta liên tưởng tới câu thơ trong bài Tức hứng của Nguyễn Trãi: " Vũ dư sơn sắc thanh thi nhãn " - Sau mưa sắc núi làm trong trẻo mắt thơ ).
     
Nhà thơ càng thêm tuổi, tất nhiên thơ càng " người lớn " hơn, càng sâu sắc hơn, nhưng vẫn là tình yêu đối với cái đẹp:


CÁI ĐẸP

Cái đẹp mà tôi hằng khao khát
Là vĩnh hằng nếu so với cuộc sống
Cái đẹp của cuộc sống không ngừng biến đổi
Và cuối cùng cũng chỉ là tro bụi thôi.

Vẫn là tình yêu đối với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá:


SINH NHẬT

Vào ngày sinh nhật
Tôi nhận được chiếc ví sặc sỡ
Tôi chẳng có tiền
Và không thiết gì những đồng xu vô bổ.

Tôi chạy ra sau ngọn đồi xa lạ
Ngắm những bông hoa rực rỡ
Tôi tự nhủ: giờ mình đã có một nhà kho
Để chứa những hạt hoa trong đó.

Chiếc ví được nhét đầy hạt hoa
Vài hạt đen nhánh
Tựa như những con mắt ngộ nghĩnh dễ thương.

Và tôi bảo những hạt hoa: Đừng sợ
Tôi sẽ mang các em đến căn nhà mùa xuân
Và các em sẽ có được
Những áo khoác màu xanh
Và những chiếc mũ bông nhiều màu sắc trên vành.

Tôi có chiếc ví nhỏ
Tôi chẳng cần tiền
Chẳng cần những đồng xu tẻ nhạt
Không thể đâm chồi nẩy lộc
Tôi chỉ cần nhét vào ví những hạt hoa nhỏ xinh
Mà tôi biết từng ngày sinh.
  
Những năm tháng cuối đời của Cố Thành đã kết thúc như một bi kịch. Tuy thế, anh vẫn kịp để lại cho đời những bài thơ tuyệt đẹp. Cố Thành vẫn được nhắc đến như nhà thơ nhiều sáng tạo, một khuôn mặt lớn của nền thơ ca Trung quốc hiện đại. Thơ Cố Thành đã được dịch sang nhiều thứ tiếng ( Anh, Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Đan Mạch... ).