Wednesday, August 20, 2014

938. NGUYÊN MINH Lữ Quỳnh, người bạn văn suốt cả cuộc đời tôi





Nguyên Minh
Lữ Quỳnh, người bạn văn 
suốt cả cuộc đời tôi


Chân dung Lữ Quỳnh – Đinh Cường vẽ - 1987



Bây giờ sau hơn nửa thế kỷ, khi ngồi viết lại những giòng chữ này, tôi vẫn khẳng định một điều: Nếu không có Lữ Quỳnh thì không có Nguyên Minh.

Phải, từ năm 1958 tôi về quê nội. Huế. Tôi mới bước chân vào giới văn chương. Thuở ấy ở đất Thần Kinh có rất nhiều nhóm như một văn đoàn nho nhỏ tập họp những học sinh, sinh viên tập tểnh làm thơ, viết văn. Gió Mai cũng nằm trong trường hợp đó. Khởi đầu chí có 4 người: 2 chàng bắt đầu từ chữ Lữ : Lữ Kiều, Lữ Quỳnh và 2 chàng trùng tên chữ sau, Linh: Thùy Linh, Hoài Linh. Khi tôi, Châu Văn Thuận, Hồ Thủy Giũ nhập bọn thì Hoài Linh đã vào Nam bỏ cuộc chơi. Ngày đầu tiên tôi dự buổi họp mặt với nhóm Gió Mai, tôi ngồi bên Lữ Quỳnh. Những khuôn mặt xa lạ đang bô bô nói về văn chương là những cậu học trò tuổi chưa tới 17 ở xứ Huế này làm tôi hơi khớp. Lữ Quỳnh đưa bàn tay năm ngón dài nắm lấy tay tôi như truyền hơi ấm, rồi anh cất giọng đọc một bài thơ để tặng người bạn văn là tôi từ miệt xa mới nhập cuộc.

Một vài năm sau, Lữ Quỳnh và tôi cùng ở chung một phòng tại ngôi nhà số 9 đường Hàng Đoác. Đó là dảy nhà sau của ngôi biệt thự xây cất từ thời Pháp thuộc. Anh chị tôi dành cho tôi một căn phòng nhỏ, sống một mình cũng buồn nên tôi rủ thêm Lữ Quỳnh về ở chung. Mặc dầu nhiều lần chị tôi mời Lữ Quỳnh dùng cơm với gia đình nhưng anh đều lấy cớ từ chối. Sau này tôi mới biết là Lữ Quỳnh đi ăn bụi ở một quán cốc nào đó. Tiền nhuận bút từ những bài văn, bài thơ anh cộng tác với nhật báo Công Dân ở Huế, tạp chí Mai, Phổ Thông, Bách Khoa ở Sài Gòn. Thuở ấy có bài đăng ở những tạp chí văn học này là một điều hảnh diện của những người viết trẻ tuổi như chúng tôi.

Thuở ấy, ở Huế những anh chàng mới bước chân vào làng văn chương đều tạo cho mình một chân dung “nàng thơ”. Dung nhan “nàng thơ” lấy từ một cô bạn láng giềng hoặc một người O, một người chị họ nào đó. Lữ Kiều, Thùy Linh, Lữ Quỳnh cũng vậy. Những giai thoại về mối tình ngây thơ, hư hư thực thực ẩn hiện trong những bài thơ, bài văn mà suốt những năm tháng sau này gần hơn nửa thế kỷ “người đó” nào có hay biết gì, hoặc nếu có, thì cũng âm thầm giữ kin trong tim.

Người của Lữ Quỳnh đi lấy chồng, Lữ Quỳnh buồn, làm thơ trên những trang giấy học trò rải đầy trên giường, thức khuya dậy sớm, trằn trọc, nắn nót những giòng chữ thật bay bướm làm thành một tập thơ mang tên “Thác loạn”. Thuở ấy tôi cứ tưởng anh đang đau khổ vì biết mình mang một chứng bệnh nào đó như lời anh nói khi làm tập thơ này. Sau này tôi mới khám phá ra sự thật. Căn bệnh “tương tư” của một nhà thơ mới biết yêu lần đầu. Đến tuổi xế chiều Lữ Quỳnh bộc lộ tình cảm đó qua bài thơ:


ngày nào mượn thơ
Nguyễn Bính để tỏ tình chị


nhớ ngày rất trẻ tôi yêu chị
chép Xuân Tha Hương cả chục lần
tết này chưa chắc em về được
em gửi về đây một tấm lòng  (*)
tặng chị kèm theo tình mới lớn
từng đêm dõi bóng ngoài sân trăng

đem thơ chị ép vào trang sách
chị nhốt tình tôi thật lạnh lùng
từ đó xuân qua rồi xuân tới
chị giã từ tôi đi lấy chồng
tôi đem thơ dại phơi ngày tháng
thương chị từ nay phải bế bồng

rồi tháng ngày qua theo cánh gió
giang hồ em chị tóc pha sương

lòng xưa giậu đổ bờ hiu quạnh
biền biệt tin nhau… nhạn cuối trời

gửi chị bài thơ đang viết dở    
nhờ mây mượn gió cuốn thơ đi…

(*) Nguyễn Bính.(1918-1966)


Con đường mang tên Những linh hồn đứng

Những đêm trăng thanh gió mát, trời đã về khuya, tôi và Lữ Quỳnh lén leo qua cổng rào ngôi biệt thự, để ra con đường tráng nhựa láng, đi lang thang dưới hai hàng cây đoác sừng sững bên vệ đường. Lữ Quỳnh bước những bước chân sải dài, tôi lẽo đẽo theo sau. Trời về khuya, không một bóng người. Cả hai ngồi bệt giữa đường, ánh trăng chiếu vào những ngọn lá đoác đang lắc lư chạm vào nhau theo con gió thổi, phát ra những âm thanh như tiếng ai đó  rên rỉ, tỉ tê, từ khu nhà xác của bệnh viện Huế gần đó. Những oan hồn vất vưởng của những xác chết từ một viên đạn từ một mã tấu mà chiến tranh vừa ló dạng. Sau 1954 đất nước chia đôi, hưởng đươc không khí thanh bình chỉ vài năm, ở nông thôn chiến tranh du kích lại tái diễn. Quê hương của Lữ Quỳnh: Làng Mỹ Lợi bất ổn. Mười năm sau những người thân của Lữ Quỳnh lần lượt xuất hiện như Chiến nhân vật trong truyện ngắn Cát Vàng, như chàng nhạc sĩ trong Bóng tối dưới hầm đăng trên tạp chí Ý Thức mà Lữ Quỳnh là một trong những người chủ trương.

Trở lại nói về ngôi nhà số 9 đường Hàng Đoác. Lữ Quỳnh đặt tên mới cho con đường, phổ biến trong nhóm Gió Mai và khi Lữ Quỳnh gởi những bài văn của anh cho các tạp chí văn học đều ghi phía dưới: Viết từ con đường Những Linh Hồn Đứng. Tôi viết một bài mang tên “Những Linh Hồn Đứng” tặng Lữ Quỳnh trong tập Tưởng Chừng Đã Quên. Một chi tiết mãi đến giờ vẫn làm tôi xúc động về tình cảm anh đối với người Mẹ. Thuở ấy tôi mồ côi Mẹ năm 17 tuổi và tôi đau buồn về nỗi mất mát quá lớn. Người Mẹ. Còn cha tôi đã để lại những dấu ấn khắc nghiệt trong thời thơ ấu nên tình cảm tôi đối với ông gần như xa cách.

Một buổi chiều có một người đàn bà, xách một cái giỏ lát đựng những trái cây đứng trước của phòng tôi, nghe tiếng gõ cửa tôi cứ tưởng chị tôi muốn gặp. Tôi ngỡ ngàng không biết người đang đứng lớ ngớ trước mặt mình. Giọng Huế trọ trẹ: - Có phải Ngô đang ở đây. Tôi mừng quá, mơ tưởng như Mẹ mình còn sống lặn lội từ xa cả ngàn cây số ra thăm. Tôi cầm lấy tay bà dắt vào phòng. Tôi ngạc nhiên khi thấy phản ứng của Lữ Quỳnh, anh không bằng lòng sự hiện diện của người Mẹ tại đây. Anh luống cuống và năn nỉ Mẹ ra về. Người Mẹ thất thểu bước đi, không ngoảnh lại. Chiếc giỏ đựng đầy trái cây bỏ lại một góc phòng. Sau đó, suốt đêm Lữ Quỳnh thao thức, trằn trọc. Nỗi thương nhớ tràn ngập qua trang thơ. Những tác phẩm sau này như Những Cơn Mưa Mùa Đông, Vườn Trái Đắng, hình ảnh người Mẹ cứ chập chờn qua trang viết. Bấy giờ tôi mới biết hoàn cảnh thật sự của Lữ Quỳnh. Anh mồ côi cha từ nhỏ, Mẹ đi lấy chồng khác. Anh sống tự lập.

Hai câu thơ về Mẹ:

…mưa gió ngoài hiên xào xạc mãi
con nằm nhớ mẹ khóc không thôi…

Những ngày mùa hè, nghỉ học Lữ Quỳnh rủ tôi về thăm quê anh. Làng Mỹ Lợi. Chúng tôi phải đi ghe máy từ Cầu Hai cả mấy tiếng đồng hồ. Đây là lần thứ hai tôi đến đó. Năm trước tôi đi với chị Thu Vân (sau này là nhà thơ Trần Thy Nhã Ca). Tôi vẫn có cảm tình đặc biệt nơi này. Cảnh đẹp, núi Túy vân, bãi biễn cát trắng mịn. Cuộc sống hai mặt : Ban ngày của quốc gia, ban đêm của du kích. Là nơi sinh ra đức Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại triều Nguyễn. Cũng là nơi nuôi nấng, ấp ủ những nhà văn nhà thơ: Lữ Quỳnh, Trần Đình Sơn Cước, Nguyễn Miên Thảo, Chu Sơn…

Tưởng rằng không bao giờ về sống lại nơi anh đã sinh ra, cùng bao nhiêu kỷ niệm đau buồn thời thơ ấu. Cũng như tôi. Bỏ Huế vào Sài Gòn làm báo. Lữ Quỳnh bỏ Huế về quê làm nghề gỏ đầu trẻ. Rồi cũng như những thanh niên khác, đến tuổi phải lên đường tòng quân. Thời ấy, chúng tôi không có quyền lựa chọn. Chính lịch sử đã đưa đẩy thế hệ chúng tôi ở miền Nam vào một trong ba con đường. Một là vào rừng theo Mặt trận. Hai là mặc áo lính Cộng hòa. Ba là trốn chui trốn nhủi. Lữ Quỳnh may mắn hơn là anh chỉ làm lính văn phòng. Sĩ quan hành chánh quân y. Bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng. Năm 1966 tôi ra Đà Nẵng trúng ngay thời điểm biểu tình, xuống đường, có lúc bạo động bắn phá nhau trong thành phố giữa quân ly khai từ Huế kéo vào, đòi lật đổ chế độ. Tôi và Lữ Quỳnh gặp nhau chỉ trong giây phút trước khi lệnh giới nghiêm ban hành. Sau đó Lữ Quỳnh bị đổi vào Bình Định. Ra đi, vì trả giá cho một cuộc dấn thân.

Bấy giờ thành phố Qui Nhơn đã mở trường Sư Phạm. Nơi từng có dấu vết của Trịnh Công Sơn. Những bản nhạc như Biển Nhớ, Trường ca Dã Tràng đã ra đời. Nơi tôi và Thùy Linh mang cả Gió Mai vào cuộc chơi. Nơi chị Kim Nhung gặp chàng thi sĩ Lữ Quỳnh. Cuộc đời họ gắn vào nhau đến bây giờ. Không hẹn mà gặp. Ra trường chị đổi về thị xã Phan Rang, trước dó vài năm tôi và Thùy Linh đã về nhận nhiệm sở tại nơi này.

Lữ Quỳnh thường vào thăm vợ. Chúng tôi có dịp làm báo Gió Mai tha hương, quay ronéo; đến sau tết Mậu Thân 1968 có thêm vài anh em khác như Lê Ký Thương, Võ Tấn Khanh, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư, Trần Hữu Lục...nhập cuộc để trở thành Ý Thức. Tờ báo khổ A4, bài vở tập họp những anh em ở rải rát các tỉnh thành miền Nam. Chủ biên bấy giờ là Ngy Hữu (bút hiệu mới của Thùy Linh Trần Hữu Ngũ) Tôi chỉ lo phần ấn loát. Tòa soạn: Theo chân người viết. Thực tế là ngôi nhà số 11 đường Nguyễn Thái Học – Phan Rang. Tuy là tờ báo quay ronéo nhưng đã có tiếng vang từ nội dung và hình thức trong giới văn nghệ miền Nam bấy giờ. Tờ Ý Thức roneo ra được 6 số rồi theo tôi vào Sài Gòn, chính thức thành Bán Nguyệt san hợp pháp, đứng tên chủ nhiệm: Dược Sĩ Nguyễn Thị Yến, một cô bạn thân của tôi. Nguyên Minh: Tổng Thư ký Tòa soạn. Bên tôi mấy số đầu tiên có Lê Ký Thương phụ tá. Lữ Quỳnh là cột trụ Ý Thức, kết hợp một số cây viết có nội lực như Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, vào nhóm chủ trương dù anh cùng vợ con chuyển hẳn vào ở Qui Nhơn. Tại đó Lữ Quỳnh thường xuyên trao đổi về văn chương với Nguyễn Mộng Gíac, Châu Văn Thuận. Anh lập nhà sách Hàm Thụ trong hệ thống phát hành sách của tôi, để đẩy mạnh sách báo đến tận tay độc giả. 

Tác phẩm Cát Vàng, Sông Sương Mù, tập họp từ những truyện đăng trên tạp chí Ý Thức do nhà xuất bản cùng tên của tôi chủ trương. Tập truyện vừa Những Cơn Mưa Mùa Đông thì do nhà xuất bản Nam Giao của một người bạn tôi.

Một kỷ niệm mà mãi đến giờ tôi vẫn hình dung rõ mồn một khuôn mặt bỗng trở nên tái nhạt khi tôi nói đùa: “Tờ Ý Thức chỉ ra đến số 8 rồi bị đóng cửa, nên tôi buồn quá bay ra Qui Nhơn chơi với anh em.” Lữ Quỳnh lặng người, đôi mắt anh nhìn xa xăm. Không nở kéo dài nổi buồn của bạn mình, tôi mới nói thật: “Làm sao Ý Thức chết được, tôi ra  bàn tính với anh là thay đổi hình thức tờ báo từ khổ chữ nhật mà hầu hết các tạp chí ở Sài Gòn đang thịnh hành thành khổ vuông đặc biệt riêng mình một cõi.” Lữ Quỳnh nở nụ cười tươi, đưa bàn tay nắm chặt lấy tay tôi như một lời cám ơn. Tôi như được tiếp sức.

Những ngày tôi ra Qui Nhơn tôi ở nhà Lữ Quỳnh, bấy giờ anh chỉ có đứa con đầu lòng. Một buổi sáng, ánh nắng chiếu qua khe cửa thành một vệt dài tình cờ tôi bắt gặp hình ảnh cậu bé sáu tháng tuổi đưa bàn tay nhỏ ra chụp lấy nguồn ánh nắng đó như một trò đùa, rồi cậu bé nở nụ cười như vừa khám phá ra một điều gì. Tôi gọi Lữ Quỳnh phán một cậu “Lữ Quỳnh sẽ có người nối dõi văn chương sau này đó”. Thật vậy. Mấy mươi năm sau nhà văn Phan Triều Hải với tác phẩm Vào đời, Một người nằm trên mái nhà, Tôi đi học. Còn Lữ Quỳnh thì im hơi lặng tiếng. Dù những năm tháng sau 1975 ở Huế rồi vào Sài Gòn qua bao nhiêu khó khăn, làm đủ nghề để sinh sống, cuối cùng anh cũng đeo mang con đường chữ nghĩa, không phải sáng tác nhưng chuyển qua làm xuất bản, in ấn. Anh liên kết với nhà xuất bản Trẻ, Văn Nghệ, chăm chút từng trang in của các tác giả trong nước như Sơn Nam, Đỗ Hồng Ngọc, các tác giả nổi tiếng từng được giải Nobel như Hemingway, Gabriel Marquez...

Rất tiếc Lữ Quỳnh còn một tác phẩm đăng trên Ý Thức dở dang là truyện dài “Vườn Trái Đắng” mà bản thảo duy nhất đánh máy, trước năm 1975, đã bị sở Phối hợp Nghệ thuật Sài Gòn  cấm xuất bản đến lần thứ ba. Sau này “Vườn Trái Đắng” nộp cho cơ quan văn hóa thời mới tiếp thu, cùng một số phận văn hóa phẩm được mệnh danh “đồi trụy” vào cơn lửa thiêu hủy.

Nhớ lại, một lần Lữ Quỳnh từ Mỹ về, hai chúng tôi cùng vào những Thư viện lớn của Sài Gòn để tìm lại những bài thơ, bài văn của Lữ Quỳnh đã đăng trên các tạp chí văn học trước năm 1975 như Phổ Thông, Bách Khoa, Ý Thức…  Đứng trước máy vi tính trước khi vào phòng đọc sách tôi đánh mấy chữ Tạp chí Ý Thức, giây lát xuất hiện trên màn hình xuất xứ, tên chủ nhiệm, tên Tổng thư ký tòa soạn. Tôi như gặp lại người yêu cũ tưởng đã biệt tâm. Tôi đưa tay lên chào như đón một người thân. Lữ Quỳnh cũng cười theo. Chúng tôi ngồi suốt cả ngày tìm tòi và nhờ nhân viên photo copy lại. Anh đem qua Mỹ để in lại sách.

Hôm nay, ở quê hương chúng tôi tự hỏi, tại sao một Tập san Tư liệu và Sáng tác Văn học Nghệ thuật không làm một số chủ đề về nhà văn, nhà thơ Lữ Quỳnh của một thời Ý Thức đã qua, cũng là người cưu mang chữ nghĩa suốt cuộc đời của mình?

Đó là lý do mà tạp chí Quán Văn số 25 (tháng 8/ 2014) này trân trọng gửi đến quý độc giả.

Nguyên Minh
21.7 – 10.8.2014