Mang Viên Long
Người thợ
sửa khóa làm chìa
TÂM SỰ CỦA TÁC GIẢ
Năm 1978, tôi rời trường Trung
học Nguyễn Huệ (Tuy Hòa, Phú Yên) trở về quê nhà ở Bình Định, lòng
vẫn còn nuối tiếc nghề cầm phấn đứng trước bảng đen. Thực ra, lúc ấy tôi cũng
chưa có một nghề tay trái nào khác để có thể kiếm sống giữa những ngày tháng lận
đận long đong đó. Trong tay không có chút tài sản náo có thể đổi…cơm áo nên lại
lui tới ngành giáo dục để hỏi han tin tức về chuyện xin dạy trở lại mà
không có chút hứa hẹn nào. Tôi biết là đã đến lúc phải “mất dạy” luôn
rồi!
Tôi đi làm “tiểu công” ( khuân
vác, phụ việc cho thợ hồ) một thời gian, thấy không kham nổi, đành quay
sang làm “thợ đụng” ( đụng gì làm đó, ai có yêu cầu gỉ thì làm theo họ , từ thợ
điện, dọn vườn, phụ việc lặt vặt …). Không có thu nhập thường xuyên, tôi
quyết định vào Tuy Hòa hoc nghề sửa chữa xe gắn máy với người bạn – anh Lê Tăng
Mính ( nguyên là thanh tra Tiểu học vừa chuyễn nghề sửa xe máy sau 75). Tôi chỉ
tốn tiền xe vào ra, còn mọi chi phí khác anh Lê Tăng Mính giúp lo hết.
Sau hơn một tháng học ngày học đêm , tôi trở về quê nhà, viết bảng hiệu
trên tấm ván nhỏ: SỬA CHỮA XE GẮN MÁY gắn vào thân cây dừa phía trước nhà. Mấy
tháng hành nghề mà chỉ lèo tèo vài khách hàng, công việc ế ẩm. Trong một hoàn
cảnh mà người có xe gắn máy đang tìm người có xe đạp để đổi vì xăng dầu phải
mua theo tiêu chuẩn, tem phiếu ( ưu tiên cho cán bộ công nhân viên chức)
thì có ma nào muốn đi xe máy. Tuy là treo bảng sửa xe máy,
nhưng thực ra sửa xe đạp là chính!
Nghề sửa xe đòi hỏi các
động tác mà căn bệnh thấp khớp mãn tính của tôi không thể đáp ứng. nên tôi nghĩ
cách “chuyễn nghề” cho phù hợp với khả năng và sức khỏe.
Một lần đi Qui Nhơn thăm ông bà
ngoại của các con, tôi đi lang thang dọc đường phổ Tăng Bạt Hổ, Phan Bội
Châu, bổng thấy chiếc tủ gỗ nhỏ của một cậu thanh niên đặt ở góc đường. Đến
gần, xem, hỏi han, chuyện trò cho vui. Cậu ấy rất nhiệt tình trả lời các câu
hỏi của tôi như đã thân nhau. Khi biết rõ hoàn cảnh và ý định của tôi muốn “học
nghề”, cậu đã vui vẻ giới thiệu tôi đến gặp “sư phụ” đang hành nghề sửa
khóa và làm chìa ở đường Phan Bội Châu. Tôi đã mời “sư phụ” lên nhà tôi một
ngày để “truyền nghề” với sự đãi ngộ xứng đáng! Tôi vừa học, vừa làm công việc
này suốt mấy chục năm qua. Để có thêm thu nhập, tôi làm thêm công việc bơm quẹt
ga và sửa kính đeo mắt. Tôi phải làm ba việc cùng một lúc như vậy mới đủ sống.
Có ai ngờ được rằng cái nghề
mình đã đầu tư liên tục từ thưở lên sáu, ròng rã gần 20 năm (nghề dạy
học) mà chỉ nuôi sống nổi mình được 12 năm , trong lúc, một cái nghề khơi khơi
, đến với tôi một cách bất ngờ, lại giúp tôi và gia đình đủ sống trong
hơn 30 năm. Cũng vui, trong ngần ấy năm, tôi cũng đã “truyền nghề”
cho 10 “đệ tử” trong và ngoài
tỉnh.
Bạn bè thấy tôi hành nghế sửa
khóa làm chìa ở góc phố chợ lấy làm ái ngại cho tôi. Họ không thể ngờ
một nhà giáo / nhà văn như tôi lại rơi vào một hoàn cảnh như vậy. Thật ra,
tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình “khổ” như lời chia sẻ của các bạn. mà vẫn
nghĩ điều gì rồi cũng có thể xảy đến cho chúng ta. Cứ an vui và
kiên nhẫn đón nhận mọi biến đổi của cõi tạm để có niềm hy vọng mà sống
tiếp. Tôi đã “ứng khẩu’ đọc tặng anh mấy câu ( có phải là thơ không? vì
tôi “không biết” làm thơ) như sau:
“Chữ Thơ – chữ Thợ, cũng gần,
Làm Thơ, làm Thợ - ta mần cả hai!
Làm Thợ thì để sinh nhai.
Làm Thơ thì để …lai rai, đỡ buồn!”
Bốn câu thơ ấy thuộc loại “văn
chương truyền khẩu” – nhưng, qua bao năm-nó vẫn được bạn bè nhiều nơi
thuộc và nhắc nhở như một kỷ niêm vui!
Tôi vẫn thường tâm sự với vài
bạn thân: trước làm thầy ta vẫn vậy, nay làm thợ ta cũng chẳng có gì khác.
MANG VIÊN LONG
Tính đến ngày hôm nay, Nguyễn làm nghề
“sửa khóa, làm chìa” đã hơn hai mươi năm. Nhiều lúc ngồi nghĩ lại, Nguyễn cảm thấy có cái gì vừa lạ lùng, vừa buồn cười. Chính anh cũng không thể
hiểu hết được sự đổi thay kỳ quặc của cuộc đời mình. Khổ công mười bảy năm đèn
sách, đầu tư biết bao sức lực và tiền bạc, chỉ nuôi sống anh có năm năm,
trong lúc chỉ học vài ngày…
Nguyễn tốt nghiệp trường Đại Học Sư
Phạm Sài Gòn Khoa Anh Văn năm 1970, ra trường được bổ về dạy tại một trường
Trung học ở thị xã miền duyên hải. Căn nhà nhỏ anh thuê trong khu vườn của một
gia đình chỉ còn đôi vợ chồng già không bao giờ có khóa. Người chủ đã cẩn thận
làm cho anh hai cái khuy khóa chắc chắn nhưng thay vì móc khóa anh chỉ dùng
sợi dây nhựa cột lại mỗi lúc đi dạy hay có việc cần ra khỏi nhà… Bạn bè anh ở
xa có dịp tìm đến thăm, anh đi vắng, tự nhiên mở dây, đẩy cửa vào, có thể
nằm ngủ một giấc chờ anh về… Anh không hề để ý tới ổ khóa là gì, đời anh không
cần tới ổ khóa, anh nghĩ vậy.
Ba năm sau, anh lập gia đình với một cô
giáo vừa tốt nghiệp từ trường Sư Phạm Qui Nhơn. Họ đã yêu nhau từ nhiều năm
trước, khi nàng vừa thi xong Trung học đệ nhất cấp , ở vào tuổi mười bảy. Họ đã
chung sống với nhau thật hạnh phúc như bất kỳ đôi uyên ương nào trong mấy năm
đầu. Đứa con gái đầu lòng kháu khỉnh, thông minh, giống mẹ đã chào đời vào đầu
năm 1975.
Sau 1975, anh tiếp tục dạy học ở trường
cũ một niên khóa, rồi xin chuyển về quê nhà. Vợ anh vẫn còn ở lại, tính là sẽ
chuyển dần về quê vài niên khóa sau. Lý do: nhà thuê phải trả; tiền “bồi
dưỡng” hằng tháng không đủ chi tiêu cho hai tuần lễ, không có bà con ở gần để
vay mượn.
Nguyễn đem con về gởi cho bà ngoại. Anh
sốt sắng mang cả tập hồ sơ dày đến nộp cho Ty Giáo dục mới.
Bà Trưởng Phòng trong bộ áo quần bà ba
đen cầm tập hồ sơ lật qua lại rồi thảy xuống mặt bàn, đáp lạnh lùng :
- Ở đây chưa cần “loại” giáo viên
này !
Nguyễn hỏi :
- Thưa bà , là “loại”
giáo viên gì ?
- Là “loại” giáo viên
dạy Văn, dạy tiếng Anh, tiếng Mỹ… chúng tôi không cần.
- Bà chịu khó đọc
giúp tôi giấy giới thiệu của ông Hiệu Trưởng ở khu về. Nguyễn đề nghị .
- Không cần phải đọc,
bà để tập hồ sơ về phía góc bàn. Anh cứ về chờ, lúc nào cần, chúng tôi sẽ gọi…
Nguyễn đã chờ đợi ba năm. Trong thời
gan ấy, anh đã làm đủ thứ việc : tiểu công, làm vườn, thợ điện, sửa chữa xe gắn
máy, xe đạp. Tóm lại là ai có nhu cầu thuê mướn lao động, là anh nhận làm ngay…
Một hôm, lọc cọc đạp xe về thị xã thăm
con, anh ghé lại góc đường có một người thợ đang sửa khóa… Anh kiếm chuyện hỏi
han, làm quen, biết được cậu ta tên Thiết, cũng chỉ mới hành nghề hai ba năm
nay thôi. Thiết trước kia học ở trường Luật, đã lấy xong cử nhân, nhưng không
làm gì được vì mảnh bằng không được công nhận. Nguyễn la cà chơi với cậu ta hết
một ngày, được tận tình chỉ bày cách thức làm chìa khóa , chỗ mua lại chìa, và
được cậu ta hứa hẹn sẽ giúp đỡ tiếp khi nào cần. Lúc Nguyễn từ giã ra về, cậu
ta còn cho mấy chiếc que, một đoạn dây nhôm, gần chục chiếc lò xo và một số bi
khóa. Cậu ta nói : “Ngoài các khoan tay, chiếc cưa, cái êtô nhỏ, cây kềm bấm
cũ… em cũng đã khởi đầu với bấy nhiêu đó thôi! Mà em đã sống đàng hoàng!”
Được sự giúp đỡ và động viên chân tình
của người bạn sửa khóa ở thị xã, chưa đầy một tuần, Nguyễn đã kê tủ, treo bảng,
khai trương hiệu sửa khóa, làm chìa của anh phía trước hiên nhà. Ở thị trấn nhỏ
bé này, chưa có nơi nào chuyên làm dịch vụ sửa khóa nên chỉ ngay hôm đầu,
Nguyễn nhận đến cả chục ổ khóa làm chìa. Anh làm luôn tay mà không kịp.
Những tháng kế tiếp, đủ các loại ổ khóa
lớn nhỏ được các bà moi móc ở các xó xỉnh, ngăn kéo , bị mất chìa bỏ đó đã bao
lâu rồi, mang tới cho Nguyễn sửa lại, làm chìa. Có người đi đào hố rác, nhặt
lên cả bao khóa Mỹ, cũng đem đến thương lượng bán lại cho anh, chỉ dành lại làm
chìa vài ba ổ để dùng trong gia đình, hay biếu tặng con cháu.
Nguyễn chịu khó lọc cọc đạp xe về thị
xã gặp người bạn trẻ đồng nghiệp, hỏi thêm về các loại khóa mới, nhất là các
loại khóa Mỹ. Thiết giới thiệu cho Nguyễn đến gặp “sư phụ” của cậu ta. Theo lời
Thiết kể, cũng do một nhân duyên rất tình cờ, vào bệnh viện, cậu ta nằm cạnh
giường người đàn ông đứng tuổi nọ , chuyện trò thăm hỏi dần, biết trước kia nhà
ông bán két sắt, sửa và tân trang két sắt cũ , làm nghề này đã nhiều năm. Thu
nhập hằng tháng cũng khá . Đủ nuôi sống gia đình bốn con. Khi nghe Thiết kể rõ
hoàn cảnh, ông đề nghị cậu ta đến nhà, nếu muốn làm nghề này. Thế là sau khi cả
hai được xuất viện, Thiết tìm đến nhà ông, được ông chỉ bày rất tận tình, lại
nhận Thiết làm em nuôi nữa.
Nhờ ông Đường, tên “sư phụ” của Thiết
hướng dẫn, Nguyễn đã sớm trở nên tay thợ chuyên nghiệp, có thể sửa các loại
khóa khó, khóa số, két sắt, khóa xe hơi… Ra nghề vào thời điểm khó khăn, các
loại khóa tốt khan hiếm, khóa mới rất ít , phần đông bà con chỉ tận dụng các
loại khóa cũ đã mất chìa, hỏng hóc từ lâu, mang đến cho Nguyễn sửa, làm chìa,
nếu cần thì “tân trang” lại cho sáng láng một chút. Vì vậy, thu nhập hằng
tháng của anh, gấp hai lần lương giáo viên của vợ. Và cũng hơn lương giáo viên
của anh, nếu còn đi dạy. Anh vừa kiếm tiền, vừa chăm sóc dạy con học thêm…
Lệ - vợ anh, cũng đã được thuyên chuyển
về quê sau bao năm chạy lui chạy tới. Chị được về dạy ngay trường cấp I, II thị
trấn, cách nhà vài trăm mét. Nguyễn vừa làm, vừa trông con , nếu cần thì kiêm
luôn việc đi chợ, nấu ăn nữa. Anh luôn tự nhủ : “Đã sa cơ rồi, làm được gì giúp
đỡ cho vợ con, thì cứ việc làm…”. Cuối năm đầu về lại quê, chị Lệ sinh thêm một
bé trai . Đủ tiêu chuẩn quy định rồi! Và không ai dại gì sinh thêm nhiều con
trong thời buổi gạo châu củi quế này! “Cha mẹ cực khổ thì còn cam chịu được,
chứ con cái nheo nhóc thì không ai đành!”. Nguyễn thường nói với vợ như vậy.
Một buổi sáng sớm Nguyễn đang dọn tủ đồ
nghề để chuẩn bị cho một ngày mới, thì có một anh công an bước vào.
Anh ta nghiêm nét mặt, hỏi :
- Làm nghề này có giấy phép không?
Anh đưa cho tôi xem…
Sau phút ngạc nhiên, Nguyễn đáp :
- Chỉ có giấy đăng ký
kinh doanh hành nghề, biên nhận thuế môn bài, thuế hằng tháng… chứ giấy phép
thì chưa!
- Vậy thì anh hãy dẹp
đi, không được hành nghề nữa. Giọng anh ta rắn rỏi.
- Tôi đã làm quen
rồi, nay bảo dẹp, tôi còn biết làm gì? Nguyễn phân trần.
- Đi học nghề khác….
- Tôi đã lớn tuổi, lại hoàn
cảnh không đủ điều kiện chuyển nghề. Tôi có nộp hồ sơ cho công an huyện để xin
rồi, nhưng chưa thấy trả lời… Tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có gì sai
trái sau này…
- Vậy ở trong thị
trấn này có xảy ra vụ trộm cắp nào, thì anh phải chịu trách nhiệm. Nghe chưa?
- Anh nói như vậy thì
hơi ép tôi, lại vô lý. Tôi có làm thì tôi mới chịu chứ. Nguyễn nói giọng
cương quyết.
Sau phút do dự, anh công an vẫn giữ nét
mặt nghiêm nghị, nói tiếp :
- Được rồi ! Tôi sẽ về hỏi lại,
nếu anh chưa nộp lý lịch hồ sơ xin phép mà nói nộp rồi, thì anh sẽ… chết với
tôi!
Vài ba tháng sau, lại có một anh công
an khác đến gặp Nguyễn, yêu cầu anh làm một quyển sổ, ghi rõ họ tên , địa chỉ
của tất cả những ai đến làm chìa khóa ; hằng tháng anh ta sẽ quay lại kiểm tra.
Nguyễn làm y lời dặn, nhưng đã mấy tháng qua, chẳng thấy anh ta quay lại…
Khách hàng của Nguyễn gồm đủ mọi thành
phần, mọi lứa tuổi, trong thị trấn và cả các xã lân cận trong huyện. Có lần,
một ông già trạc bảy mươi, râu tóc bạc phơ, quắc thước, đến nhờ Nguyễn làm chìa
cho một khóa tủ mất chìa đã gần mười năm.
Ngồi xuống ghế, nhìn Nguyễn, ông bỗng
nói :
- Chà, tôi xem tướng ông không
phải làm mấy chuyện này!
Nghe lạ, Nguyễn ngước lên nhìn ông :
- Chứ bác kêu tôi làm
gì nữa? Anh cười . Bác không thấy tôi đang làm nghề gì đây sao?
- Thấy chứ sao không,
ông lại cười, nhưng thấy tướng mạo, phong cách ông làm mấy việc này thì uổng…
- Bác thử đoán xem,
tôi có thể làm được chuyện vặt gì nữa?
- Tướng ông thì cũng
phải là giám đốc, chủ sự, hay thầy giáo…
- Bác lầm rồi, Nguyễn
cười lớn, cái bề ngoài đâu phải là cái bên trong. Có lắm kẻ có hình thức sang
trọng, mà có cái tâm xấu ác, thủ đoan, hẹp hòi… thì có đáng cho ta tin tưởng
không? Nguyễn gợi chuyện.
- Đã đành như vậy,
ông già chống chế, nhưng cũng có câu “Tâm thiện sinh hảo tướng”. Tâm tướng đều
có liên quan với nhau…
Nói chuyện đủ thứ trên trời dưới đất
với khách hàng là để cho vui, cũng để làm ngắn bớt thời gian chờ đợi. Có một cô
bé trạc hai mươi đến nhờ Nguyễn làm thêm một chiếc chìa khóa xe. Cô ta hỏi :
- Chú làm nghề này
lâu chưa, chú?
- Từ lúc ba má cháu
mới gặp nhau, Nguyễn đáp .
- Sao chú biết được
ba má cháu? Cô bé ngạc nhiên.
- Chú không biết,
nhưng tuổi cháu nhiều lắm, cũng bằng thời gian chú làm nghề này thôi !
- Lâu dữ vậy sao, cô
bé cười, chắc là chú làm được chìa của tất cả các loại khóa chứ?
- Làm được, nhưng không
tất cả. Có một loại ổ khóa chú không làm được…
- Khóa gì vậy? Cô bé
ngạc nhiên, chờ đợi .
Nguyễn ngước nhìn lên khuôn mặt bầu
bĩnh, xinh xắn của cô bé, cười :
- Khóa tâm hồn…
Cô bé tròn xoe đôi mắt, “ồ” lên một
tiếng, rồi cười thoải mái : “Sao chú lại làm không được?”.
- Khó lắm, Nguyễn cười, gần
hai mươi năm rồi, chú vẫn chưa làm được, cháu à! Có lẽ suốt đời chú, vẫn chưa
làm được…
Im lặng một lát, Nguyễn nói tiếp :
- Cháu biết tại sao
không ?
- Thưa, không…
- Có gì lạ đâu.
Chỉ vì chiếc chìa khóa ấy phải làm bằng vàng y, 24 kara, có nạm kim
cương… mà chú chỉ có toàn đồng và sắt! Nguyễn lại nhìn cô bé, cười lớn. Tự
nhiên, cả hai cùng cười.
Được nói chuyện, hỏi han về gia đình,
công việc làm ăn, các sinh hoạt thường ngày với khách hàng, là một niềm vui với
Nguyễn. Tuy vậy, không phải vị khách nào cũng vui tính, cởi mở, thâm tình cả.
Có vị đến với vẻ trịnh trọng, xa lạ, nhìn ngó Nguyễn với nửa con mắt. Có vị
hạch sách, bắt bẻ nọ kia từng tý chút, dầu điều ấy rất nhỏ nhặt hoặc không
đúng. Họ tiết kiệm lời nói với Nguyễn như những ông bà chủ khó tính. Gặp quý vị
này, Nguyễn thường im lặng, chăm chỉ cắm cúi làm. Anh cũng tỏ ra rất tiết kiệm
lời nói với họ. Không có tình thân và sự cảm thông thì mọi lời lẽ đều trở nên
vô ích cả.
Một người đàn bà, dáng quê mùa, đến
nhận một ổ khóa đã gửi làm sáng hôm trước, sau khi tra chìa mở thử khóa vài ba
lần, bà lẩm bẩm : “Thật là bậc kỳ tài!”.
Đang lúi cúi làm việc, nghe hai tiếng
“kỳ tài” vừa thốt ra từ miệng của một người đàn bà lam lũ, Nguyễn ngước
nhìn bà ta. Anh cười : “Chị vừa nói cái gì là kỳ tài ?”.
- Tôi nói anh làm
được chìa cho ổ khóa này là bậc kỳ tài.
- Chị nói giỡn hay
thiệt?
- Tôi nói thiệt. Tôi
đã đưa cho ba bốn nơi rồi, họ đều lắc đầu, bảo không làm được…
- Tôi làm được vì có
chút tài vặt thôi, có gì mà “kỳ tài”? Nguyễn cười, phản đối.
Nguyễn tâm sự :
- Tôi mà là “bậc kỳ tài” thì tôi
làm những việc lớn lao nữa kia, chứ đâu phải suốt ngày ngồi đây mài dũa ba cái
chìa khóa, kiếm từng đồng bạc lẻ… Phải không? chị nên dành hai tiếng ấy cho
người khác, chứ rủi có ai nghe được, họ cười tôi thì khổ!
Thỉnh thoảng, Nguyễn cũng phải rời nhà
đạp xe đến tận các cơ quan, hay nhà riêng bị mất chìa khóa hay bị hỏng, để làm
chìa hay sửa chữa tại chỗ, vì khóa chìm trong tủ hay không thể mở tháo ra được.
Có hôm anh đạp xe bảy tám cây số, đến nơi, chị chủ nhà mới chạy ra giơ xâu chìa
khóa vừa tìm lại được, cười : “Có lại rồi anh à!”.
- Sao chị không trở
lại báo tin cho tôi biết? Nguyễn cự nự.
- Tôi lo làm, quên
mất…
- Vậy là khi “không”
thì nhớ, thì kêu, thì năn nỉ, còn “có” thì quên phải không? Nguyễn trách.
Người đàn bà chỉ cười. Và Nguyễn cũng
chỉ biết cười, quay xe trở về nhà. Anh tự nhủ: “Ở đời, thường là đều vậy cả !”.
Bù lại, nhiều nơi, khi thấy anh mang
xách đồ nghề đến, họ rất vui, tiếp đón như quý khách : nước trà, thuốc lá, lại
có cả trái cây. Có người còn mời giữ anh ở lại ăn cơm. Nguyễn thường thành thật
cám ơn những tấm chân tình mộc mạc ấy, mà không dám làm phiền. Có năm, đã tối
ba mươi Tết, còn có người đến nài nỉ anh đi mở giúp hai khóa tủ. Chị ta cho
biết, tất cả áo quần mới, bánh mứt, trà thuốc… đều nằm trong hai chiếc tủ ấy.
Nếu không mở được, gia đình chị sẽ không ănTết, mấy đứa con không có áo quần
Tết để mặc, chúng sẽ khóc la… Tuy đang bế bộn việc nhà, Nguyễn cũng vội vàng
theo chị, bởi vì đây là một trường hợp đáng “cấp cứu”.
Cơ quan X. có một két sắt bị hỏng,
không mở được, đã ba hôm không lấy được tiền và giấy tờ, đến gọi Nguyễn . Sau
khi hỏi thăm sơ lược tình trạng tủ két, anh làm “hợp đồng miệng” với khách :
“Mở và sửa lại hoàn chỉnh, với giá ba chục ngàn đồng”. Khi đến, mở tủ và sửa
xong; vị thủ trưởng lại không đồng ý. Ông ta nói : “Người ta cuốc đất một ngày
chỉ có mười lăm ngàn, anh mở tủ sửa chỉ trong một giờ, nhanh quá, sao lại lấy
đắt thế? “. Một trạm kiểm lâm ở huyện Y. vừa mua về một két sắt mới, không rõ
chuyên chở thế nào, đến nơi không mở tủ để sử dụng được, nhờ người mời Nguyễn
đến với lời hứa sẽ cho mua một xe củi không đánh thuế. Người tài xế xe đò liên
huyện thú thật với Nguyễn như vậy, để anh “thông cảm nhận lời. Đường xa phải đi
mất một buổi, nhưng đến nơi làm anh chỉ mất hơn một giờ. Ông Trưởng trạm vui vẻ
trả đủ số tiền Nguyễn nói, còn “tặng” thêm cho anh một bao than lớn. Ông bảo :
“Trước anh, đã có hai người thợ đến, nhưng không mở được. Họ lại đòi số tiền
gần gấp hai số tiền trả cho anh…”. Tại Hợp tác xã Z., cô thủ quỹ lần đầu tiên
sử dụng két sắt, vội vàng đổi số vì sợ mất tiền; sau lúc đi ngân hàng về, không
mở được tủ. Cũng chẳng còn nhớ mã số nào. Vì tủ mới mua, cô yêu cầu Nguyễn
không khoan, đừng làm trầy sơn của tủ, ông chủ nhiệm sẽ “bắt đền” tủ
khác, mà cô thì nghèo. Trước yêu cầu gắt gao và hoàn cảnh đáng thương của cô
thủ quỹ. Nguyễn đã nhận lời. Gắng dò tìm bốn chữ số mới được đổi của tủ. Gần
hết một buổi, anh mở được tủ nhẹ nhàng. Dặn dò cẩn thận từng trường hợp
lúc sử dụng. Nguyễn cho cô ta biết giá tiền công một buổi của mình. Cô gái ngạc
nhiên, giọng thành khẩn : “Sao anh lấy ít vậy? em cứ tưởng… thôi, anh cầm hết
chỗ này đi, em hết sức cám ơn anh!”.
- Tôi chỉ nhận đúng số tiền công
của tôi thôi, Nguyễn cười, trao lại phần tiền còn thừa cho cô gái. Tôi
cũng phải cám ơn cô mới đúng… Biết đủ, thì bấy nhiêu đây cũng đủ rồi! Nếu
không, biết bao nhiêu cho vừa. Phải không?
Gặp những khách hàng keo kiệt, coi tiền
lớn công nhỏ, ưa kèo nài trả treo như việc bán buôn ở chợ, Nguyễn thường trả
lời họ dứt khoát : “Tôi chỉ lấy đủ tiền công của tôi. Đưa thừa không nhận, đưa
thiếu không chịu. Vui vẻ thì làm, không vui thì cứ xin tùy ý…”. Anh cũng thường
nói đùa : “Tôi không xem khách hàng là Thượng đế đâu, mà xem khách hàng là những
người thân. Người ta thường đánh lừa Thượng đế, nhưng với người thân thì
không!”.
Có những khách hàng cũng đã xem anh như
người thân thật tình. Họ đem chuyện riêng của chính mình, của gia đình ra tâm
sự, hỏi ý kiến anh. Nguyễn đã vui vẻ, chân tình góp ý thẳng thắn, khách quan,
xây dựng. Một người đàn bà trạc trên bốn mươi tuổi đến nhờ Nguyễn làm thêm một
chìa khóa cửa sắt, đột nhiên hỏi :
- Tuổi Thân có hợp
với tuổi Sửu không anh ?
- Rất hợp, Nguyễn
đáp. Con khỉ và con trâu không có vấn đề gì cả đâu! Anh cười. Chỉ có con người
là bày ra lắm chuyện…
Người đàn bà kể lại, giọng lo lắng :
- Tại sao ra chợ, gặp ai cũng bảo
“Tuổi tụi nó xung khắc, không hợp, mày cho làm đám cưới làm gì?”
Nguyễn ngước nhìn bà, dừng tay, cười :
- Ở ngoài chợ, có mấy
bà ăn không ngồi rồi, chuyên bới móc đủ chuyện người khác mà bàn bạc, bình
phẩm, thêu dệt… Chị hơi đâu mà nghe tin vào những lời lẽ vô trách nhiệm ấy.
- Nhà tôi cũng nói
vậy. Chị thở dài. Nói thì dễ, mà làm mới khó !
- Điều quan trọng là
hai đứa có thật lòng yêu thương nhau hay không, Nguyễn nói, sau đó nhân cách
tính tình của cô gái thế nào, gia đình có vấn đề gì không. Thế là đủ. Còn tuổi
tác, chắc chị cũng đã hiểu, có biết bao cặp vợ chồng xem tuổi thì rất tốt, mà
sống với nhau vài ba năm, phải tan rã… Sống ở đời, biết lấy nhân đức mà cư xử,
thì kết quả luôn luôn tốt…
Nét bình thản, yên vui đã trở lại trên
gương mặt người đàn bà nhẹ dạ, quá lo. Bà nói khẽ : “Tháng tới đây, sẽ làm đám
cưới cho tụi nó rồi!”.
- Chị cứ yên tâm đi, hai đứa
nó đã yêu nhau thật lòng rồi, thì có khó khăn gì cũng vượt qua được hết, Nguyễn
quả quyết. Ở đời, có mấy ai không gặp khó khăn, thử thách đâu? Tự nghĩ lại mình
cũng thừa biết như vậy rồi!
Một bữa nọ, trong lúc vợ chồng Nguyễn
đang lo sắp sửa bàn thờ để dọn thứa ăn giỗ mẹ anh, thì Thiết bước vào.
Nguyễn lên tiếng trước :
- Chà, cậu “bắt hơi” tài thật !
Lệ trách :
- Anh nói đùa
gì lạ vậy?
- Anh em tôi
lâu ngày mới gặp, giỡn chơi một chút không được sao cô giáo? Nguyễn cười.
Thiết tự kéo ghế đến gần vách tường,
ngồi xuống; mắt đăm đăm nhìn Nguyễn : “Anh chị đang bận… à? “.
- Hôm nay là ngày giỗ
mẹ anh, Nguyễn nói. Gia đình cũng sắm mâm cơm, hoa quả… chút ít để nhớ… vậy mà
! Cậu ở lại chơi với tụi tôi nhé, chiều hãy về…
- Có lẽ ghé thăm anh
chị một chút, rồi em về , lo thu xếp đồ đạc. Thiết nói giọng buồn buồn.
- Cậu dự định đi xa
à? Nguyễn ngạc nhiên.
- Chắc vậy! Thiết
buông thõng, vẻ mỏi mệt.
- Nếu đúng vậy thì
cậu càng phải ở lại chơi với tụi tôi lâu hơn, một ngày, hai ngày…
Thiết im lặng.
Nguyễn nhìn bạn, lo lắng hỏi :
- Vợ chồng cậu đã… làm hòa lại
chưa?
Thiết bỗng cười :
- Có “chiến tranh” gì đâu mà hòa
anh?
Thiết lấy gói thuốc Bastos đỏ trong túi
áo ra mời Nguyễn một điếu, châm lửa cho Nguyễn. Cậu ta thở dài : “Em đã
nộp đơn xin ly hôn rồi! Thúy đã viết đơn sẵn, hối thúc, hằn học với em gần cả
năm trời…”.
Ở phòng khách, Thiết kể lại cho vợ
chồng Nguyễn đầu đuôi cuộc tình của anh : “Tụi em đã yêu nhau từ hồi em vào học
năm thứ nhất, trường Luật. Nàng thi xong Tú Tài một, hỏng Tú Tài hai; ở nhà làm
việc… Cha Thúy là Phó Ty Ngân khố. Dầu chưa có bằng chuyên môn, Thúy đã vào làm
ở đó… Lấy xong cử nhân Luật, em về lại quê với Thúy. Đang chuẩn bị cho ngày đám
cưới, thì biến cố 1975 xảy ra… Ba em mất, ba Thúy đi học tập, đám cưới
đành hoãn lại. Chờ dịp thuận tiện hơn cho cả hai gia đình, nhất là em phải mãn
tang… Học tập về, ba Thúy nghỉ việc, nhưng nàng vẫn còn được “lưu dụng”.
Em xoay xở tìm một việc làm, nhưng tấm bằng cử nhân Luật không được chấp nhận.
Em đã làm đủ mọi việc, mọi nghề phụ,
trong thời gian mấy năm, mới chuyển sang nghề làm chìa khóa như anh biết. Cậu
của em đang làm Chủ nhiệm một Hợp tác xã xây dựng ở Biên Hòa rất phát đạt ; vài
lần đề nghị với em vào vừa làm vừa học việc với ông, nhưng em không thể bỏ Thúy
mà đi được. Ông bảo : “Cháu vào phụ giúp cho cậu, học việc, rồi sau đó cậu sẽ giúp
đỡ cho cháu đứng ra làm riêng, chứ có phải làm công cho cậu suốt đời đâu”.
Sau đó, tụi em quyết định làm đám cưới.
Tụi em sống trong căn nhà riêng của Thúy do cha mẹ nàng cho lại. Cuộc sống tuy
có vài điều như ý, nhưng em luôn lấy tình yêu thương mà vui bỏ tất cả. Em tự an
ủi mình : ở đời, có nơi nào hoàn toàn được như ý của mình đâu?
Khi Thúy sinh đứa con đầu lòng được sáu
tháng, nàng càng tỏ ra khinh thường em, nhiều lúc thật quá đáng : luôn đi chơi,
hẹn hò, tiệc tùng với đám bạn trai trong Sở, hay bạn học cũ… mà không cho em
biết! Nàng ngồi sau xe nhiều đứa, chạy ngang qua chỗ em làm; em trông thấy
nhưng vẫn im lặng! Một người đàn bà đã có chồng con, ngồi sau xe của bạn trai
để đi chơi, là điều đồng lõa với sự ngoại tình đáng ghê tởm!
Tuy vậy, em vẫn nghĩ tới con, tới những
năm tháng đầu đời đã yêu nhau, mà bỏ qua. Một hôm, Thúy đi chơi về hơi khuya,
em hỏi :
- Em bỏ con mà đi như vậy
thì coi có được không ?
Nàng trả lời lạnh lùng :
- Sao lại không được?
Tôi có quyền sống cho tôi nữa chứ.
- Sống cho con, cho
gia đình, cũng là sống cho mình rồi còn gì. Em nói .
- Sống với anh, tôi mỗi
ngày mỗi tàn tạ, Thúy cãi. Vợ con người ta xe Dream mới toanh; còn tôi, chỉ với
chiếc Chaly cũ mèm. Anh không nuôi nổi tôi, còn muốn giữ tôi lại làm gì?
Trước đây, em đã mơ hồ thấy rõ sự thật
như vậy, nhưng đêm đó, Thúy đã cho em thấy rõ hơn về nhân cách của nàng, ước
muốn của nàng, cùng nỗi bất hạnh lớn nhất của đời mình…
Từ đó về sau, mặc cho nàng đi về tùy ý.
Nàng chẳng hề cho em biết là sẽ đi đâu, bao giờ mới trở về nhà! Có một thằng
bạn trai của nàng tìm đến nhà thăm, ngồi nói ba hoa đủ chuyện về cái chức giám
đốc của công ty tư nhân hắn mới thành lập, rồi hỏi nàng : “Anh ở nhà hiện công
tác ở đâu?” Nàng im lặng…
Tối hôm ấy, em hỏi Thúy :
- Em không dám trả
lời về anh cho hắn biết hay sao?
- Tốt đẹp, quý giá gì
cái nghề của anh mà nói !, nàng đáp .
- Cô nên hiểu rằng,
tiền tôi làm ra không thua lương “giám đốc tự phong” của hắn, nhưng nhờ “ăn”
chỗ này, “xén” chỗ nọ, hắn mới được nhiều như thế… Đồng tiền chính đáng, thanh
tịnh mới không làm hư hỏng con người, mới được bền lâu, giá trị…
Thế là sau đó không lâu, đi làm về,
Thúy đưa cho em ba tờ giấy “Đơn xin ly hôn” đã viết, có ký tên sẵn “. Nhìn tờ
giấy đoạn tình ấy, em sửng sốt, lặng người! Nàng đã tự kết thúc tình nghĩa một
cách nhanh chóng như thế sao? Cuộc đời còn có những thứ gì khác cao quý hơn,
thiêng liêng hơn, để nàng thèm khát, ước mơ? Em tự hỏi mà chẳng dám trả lời .
Tuy đã ký tên vào đơn, nhưng em chưa
trao lại cho nàng vội. Ngày nào bước chân ra khỏi nhà đi làm, nàng cũng hằn học
: “Anh đã đi nộp đơn cho Tòa án chưa?”.
- Trước khi tôi quyết
định đi nộp, cô phải cho tôi biết thằng nào đã bày kế cho cô làm như vậy.
- Tự ý tôi làm, không
ai bày cả.
- Trước mắt, cô đòi
ly dị với tôi và sau nữa, cô sẽ đòi ly hôn với người khác… cuộc đời sẽ là những
cuộc ly hôn kéo dài. Cô đã nói tự ý mình làm, thì cô cũng sẽ tự mình nhận lấy
mọi hậu quả! Đừng có oán trách ai cả …
- Anh đừng hòng đe
dọa tôi…
- Đó là sự thật, đến
lúc này rồi, tôi còn thù oán, đe dọa cô để làm gì?
Em đã chịu đựng cuộc chung sống kéo dài
hơn ba năm, con em được ba tuổi. Một hôm, Thúy đến trước mặt em, gay gắt hỏi :
- Nếu tôi đề nghị anh
đi ra khỏi nhà, anh có đồng ý không?
- Dĩ nhiên là tôi
đồng ý rồi ! Căn nhà này là của cô, tôi đâu có dính dấp gì.
Tuần trước, em đã đến Tòa án xin nộp
đơn, mang con về gởi cho bà nội nó. Em cố tình dấu mẹ em về việc này, nói là sẽ
vào làm việc ở Biên Hòa với cậu, như vậy có tương lai hơn. Việc đến với Thúy là
do em lựa chọn, quyết định, thì nay, em không thể làm cho bà phiền muộn, khổ
đau thêm nữa. Em sẽ nhận lấy tất cả, một mình…”.
Đỡ ly nước ngọt trên tay Lệ, Thiết uống
một hơi dài, giọng từ tốn :
- Anh chị là người
thân đầu tiên, và cũng là cuối cùng, em đem chuyện riêng của mình ra kể lại…
Nguyễn hít một hơi thuốc, nhả khói ra
từ từ, vui vẻ nói :
- Cậu cứ yên chí ! Chúng tôi không
phải là người không biết điều đâu! Im lặng một phút, anh tiếp. Việc
của cậu đã như thế, tôi không biết phải nói với cậu những gì. Chỉ còn biết cầu
nguyện cho cậu…
Lệ nhìn Thiết, an ủi :
- Cậu còn trẻ quá, mong cậu ra đi
bình an, sớm làm lại cuộc đời tốt đẹp … Chúng tôi luôn chờ tin tức của cậu !
Thời gian sau này, có dịp về thị xã
thăm ông bà ngoại các cháu, vợ chồng Nguyễn đều ghé thăm mẹ và con Thiết ở xóm
Tấn. Bẵng đi một thời gian khoảng gần hai tháng Nguyễn ghé lại, thì đứa bé gái
trạc mười tuổi nói với anh : “Bà Ngoại và bé Ngân đã vào Biên Hòa với cậu cháu
rồi !”. Nghe nói, Nguyễn mừng thầm, từ nay cậu ấy sẽ bớt cô độc, bớt buồn rồi!
Nguyễn vẫn miệt mài, chăm chỉ với cái
nghề có tính định mệnh của mình, không muốn đổi thay nữa. Đứa con đầu của anh
đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Anh văn, đang làm việc cho Samsung Mobile
Showroom. Đứa con trai út đang học năm thứ ba, Đại học Bách khoa, ngành điện tử
viễn thông. Tiền lương của đứa con gái đầu, đủ nuôi sống hai chị em, và còn
dành dụm mua sắm xe cho cả hai đi làm, đi học. Một nguời bạn của Nguyễn lúc ở
Đại học Sư phạm có liên lạc với anh, gọi anh vào làm thông dịch, thư ký cho một
Công ty sản phẩm điện công nghiệp và máy lạnh Setsugo Astec Corp nhưng anh từ
chối. Rồi người học trò năm xưa nay đã là phó tổng biên tập báo Saigon Times đề
nghị Nguyễn vào làm hợp đồng, nhưng anh vẫn im lặng. Anh rất e ngại sự bon
chen, gấp gáp của cuộc sống ở Sài Gòn. Hình như ở vào cái tuổi trên năm mươi,
mọi nhịp sống ồn ào, vội vã, đều không còn thích hợp nữa. Anh yêu nếp sống bình
lặng, điều độ, thanh nhàn ở quê. Ở nơi này thì ngưỡng vọng về nơi khác ; trong
lúc ở nơi khác, lại ngưỡng vọng về nơi này. Cuộc đời mà cứ tiếp nối mãi như
thế, thì chẳng có lúc nào được yên vui cả ! Ngược lại, đôi lúc, Lệ cũng mong
muốn anh vào Sài Gòn. Đàn bà thì luôn muốn có sự thay đổi, cho dầu, chẳng rõ sự
thay đổi ấy, sẽ như thế nào. Nguyễn đã nói với vợ : “Em có muốn vào Sài Gòn sống
thì cứ việc đi, anh sẽ sống ở đây một mình cũng được… Lệ lườm chồng : “Anh sống
ở đây với cô nào nữa vậy?”. Nguyễn cười : “Chỉ có một cô mà còn bể mình, huống
hồ là hai !
Cậu đưa thư quen thuộc dừng xe trước
nhà, chạy vào trao cho Nguyễn hai tấm giấy : Một giấy gọi nhận thư bảo đảm, và
một nhận bưu phiếu . Nhìn kỹ, Nguyễn cũng không đoán ra là của ai gửi, của một
người hay hai. Số tiền ghi trên giấy gói quá lớn, con anh không thể gửi được mà
không báo trước.
Lệ nói : “Thì anh cứ việc đến bưu điện
thì biết ngay, suy nghĩ làm gì cho mệt. “. Và Nguyễn phải hẹn với bà khách đang
ngồi chờ nhận mấy ổ khóa làm chìa, vội vã đến bưu điện.
Cô nhân viên cầm giấy chứng minh nhân
dân của Nguyễn và hai giấy báo, nhìn lướt qua, hỏi :
- Chú có biết
ai đã gửi thư, gửi tiền cho chú không?
- Tôi chịu thua!,
Nguyễn cười.
- Sao lại không biết?
Cô gái hỏi vặn .
- Thì tôi không biết
nên trả lời “không biết” chứ sao. Cô hỏi câu hóc búa quá!
- Vậy chú chưa nhận
được đâu! Cô nhân viên để giấy gọi, thẻ chứng minh nhân dân của Nguyễn sang một
bên, cắm cúi làm việc khác.
- Nè cô, cô giải
quyết cho tôi về chứ. Có luật lệ nào buộc người nhận thư, nhận tiền, phải biết
tên họ, địa chỉ của người gửi đâu. Anh phản đối.
Cô nhân viên vẫn im lặng, lạnh lùng.
Nguyễn nói lớn :
- Cô xem đúng tên, địa chỉ
người nhận thì cho tôi nhận, nếu không thì cô trả hết giấy tờ cho tôi…
Nguyễn cầm nắm giấy đi thẳng lên lầu,
gõ cửa phòng ông Giám đốc. Có lẽ vì gương mặt tức bực đỏ ngầu của Nguyễn nên
ông Giám đốc vừa nghe Nguyễn trình bày mấy câu, đã vội nói :
- Anh hãy xuống mà nhận đi, tôi sẽ
phone cho cô ta…
Ra khỏi phòng, Nguyễn càu nhàu :
“Lại một luật lệ mới được đặt ra, không biết để làm gì ?”
Đó là thư và tiền của Thiết gửi về cho
vợ chồng anh từ Biên Hòa.
Nguyên văn là thư của Thiết :
Sài Gòn, ngày…
“Kính thăm anh chị ,
Lâu nay em không có dịp viết thư về
thăm anh chị và các cháu, em xin lỗi vậy! Lý do em không viết thư là không muốn
anh chị phải buồn vì em, chứ không phải quên, hay không có thời gian… Em mong
anh chị thông cảm và tha thứ.
Bù lại cái lỗi ấy, thư này, em xin “báo
cáo” với anh chị những gì anh chị cần biết về em . Sau ngày nộp đơn, lên thăm
anh chị, trở về, ngày hôm sau em đón xe đò vào Biên Hòa. Ngày tòa án mở phiên
xử, em cũng không về. Nghe nói Thúy đã nhờ đài, báo loan nhắn tin: nếu không về
đúng ngày hẹn, Tòa sẽ “chiếu theo luật hiện hành” mà xử ly hôn vắng mặt. Em có
ý để cho như thế vì có mặt để mà làm gì nữa? Để tranh cãi dành ưu điểm, phần
tốt về mình ư? Đã nộp đơn rồi, là em nhận tất cả lỗi lầm về mình. Em có lỗi là
không hái ra được nhiều tiền, và không có địa vị sang trọng!
Ba năm sau, nhân lúc nhận thầu xây dựng
khu chợ mới Biên Hòa, cậu em đã sang tên cho em một căn phố lầu trừ dần vào
lương hằng tháng. Thế là em vội vàng mang mẹ và con em vào chung sống. Có được
ít vốn, cậu em bảo em đã sành nghề, có thể ra làm riêng được. Ông nhận thầu, về
giao lại cho em thi công thực hiện. Thời gian này em đã mua được một căn nhà ở
quận ba, và hai lô đất ở khu dân cư Nam Sài Gòn. Năm 1998, theo quyết định của
Nhà nước, cho phép ai có văn bằng cử nhân Luật trước 75, sẽ được theo học khóa
bổ túc, để được công nhận hành nghề. Vì đang bận thi công một công trình tương
đối lớn, em trễ học khóa mở ở Sài Gòn, phải xuống tận Cần Thơ theo học một năm.
Dịp này, may mắn là em gặp lại một người bạn cũ, là kỹ sư xây dựng, thay em
quán xuyến công việc trong những ngày em vắng mặt.
Em đã kết thúc khóa học tốt đẹp và được
đăng ký vào Luật sư Đoàn thành phố Biên Hòa. Tuy vậy, em ít khi hành nghề Luật,
mà vẫn theo đuổi ngành xây dựng. Em và người bạn thành lập công ty xây dựng
Thiết Kế Vinh Thiết (Vinh là tên của bạn em), có trụ sở chính ở Sài Gòn…
Có lẽ điều anh chị muốn biết hơn là em
đã “đi bước nữa” chưa, phải không? Em lại có ý nghĩ, giá như ngày trước Thúy
chịu nghe lời em, vợ chồng cùng vào Biên Hòa sớm, thì thật là tốt đẹp. Hồi ấy,
nàng khinh thường em đến nỗi chẳng bao giờ nghe em nói cho hết câu, hết ý! Chỉ
một mực làm, sống theo ý mình, luôn đòi hỏi phải ly hôn. Thử hỏi, lúc nào cũng
nghe vợ đòi ly hôn, thì còn đầu óc nào mà làm việc được nữa? Nàng lập lại mãi
câu này: “Xa anh ngày nào, tôi sung sướng ngày ấy!”.
Nay thì mọi việc đã đổi khác, đã an
bài, nhưng em chưa hề nghĩ là mình cần “đi thêm bước nữa”, mặc dù mẹ em luôn
nhắc nhở. Ở đây không thiếu đàn bà, con gái, nhưng em vẫn còn cảm thấy rất e
ngại, có chút sợ hãi. Đi một bước đã khổ đau dường ấy, đi thêm bước nữa, rồi sẽ
ra sao?
Bạn em, Vinh, có cô em gái giữa, tốt
nghiệp trường Đại học Y Dược, khoa dược, đã bốn năm , có ý giới thiệu cho
em, nhưng bao giờ tình yêu đến, thì nó sẽ đến. .. Ngày mai, duyên số, làm sao
mà biết trước được, phải không anh chị? Em cứ mặc cho dòng nhân duyên của đời
mình trôi chảy…
Gửi kèm theo thư này, em có gửi biếu
các cháu một ít tiền, mong anh chị vui lòng nhận cho em vui nhé! Anh chị
đừng bao giờ nghĩ rằng, em “trả nợ” cho anh chị. Nếu nói “nợ” thì em sẽ trả
suốt đời không thể hết. Sau bữa ăn no nê, ngon lành, ra về lại có bao thư của
chị nhét vào túi áo, nghĩa cử ấy, làm sao em quên được. Hằng tháng, anh chị lại
ghé thăm con em và mẹ em… Em đã nhờ sự giúp đỡ về tinh thần cũng như vật chất
của anh chị để gắng vươn lên, gắng sống đàng hoàng, như lời chị nhắn nhủ : “Cậu
còn trẻ quá, mong cậu ra đi bình an, sớm làm lại cuộc đời tốt đẹp!”.
Mãi nói chuyện “người lớn”, quên bẵng
bé Hoài Ngân của em. Nó rất xinh, giống Thúy, yêu bà, thương ba, và nhất là học
rất giỏi. Năm đến, cháu sẽ vào lớp sáu . Như vậy mà đã gần mười ba năm trôi qua
rồi nhỉ, nhanh thật! Đời người chóng vánh, ngắn ngủi là thế, mà còn tạo thêm
phiền não, khổ đau cho nhau để làm gì? Em thật không thể hiểu nổi.
Viết thư cho anh chị, em cứ muốn viết
mãi, nhưng lại thoáng nghĩ, em có làm phiền thời gian của anh chị không? Gửi
cho anh chị tấm danh thiếp , lúc nào có dịp vào Sài Gòn thăm các cháu, mời anh
chị ghé lại nhà em chơi nhé! Anh chị nhắn với các cháu, hãy đến chơi với
bé Ngân, nó rất tội nghiệp!
Xin mượn lời nói của người xưa, “Giấy
ngắn, tình dài” để “tạm kết thúc” lá thư tràng giang đại hải này… Mong
anh chị niệm tình tha thứ, nếu có điều chi còn thiếu sót…
Kính chúc anh chị và các cháu mạnh
giỏi, an vui, hạnh phúc…”
Đọc xong lá thư của Thiết cho vợ nghe,
Nguyễn bỏ thư lại vào phong bì, xếp thư bỏ vào túi áo. Nguyễn nhìn thấy Lệ rươm
rướm nước mắt. Nàng lại cảm thương cho hoàn cảnh ngang trái đau thương
của Thiết. “Đàn bà rất dễ bị kích động, rất yếu đuối, và sau cùng là cũng dễ
quên mình để chỉ nhìn sang kẻ khác”. Nguyễn nghĩ thầm .
Nguyễn nói với vợ :
- Người có tâm chí thành như Thiết
không thể khổ lâu đâu! Ở đời này, tìm được một người như cậu ta, quả thật là hiếm,
phải không em?
Lệ nhìn chồng, dè dặt :
- Em nghe nói sau khi giảm biên
chế bị cho nghỉ việc, Thúy đi buôn thua lỗ, rồi về mở quán cà phê, thế chấp nhà
để vay tiền ngân hàng…
Nguyễn đứng dậy, bước lại bàn làm việc,
nói với vợ:
- Thôi, em hãy quên đi! Em bỏ công
tìm hiểu làm gì về một con người như vậy chứ?
MANG VIÊN LONG
Tháng 6.2000