Nguyễn Lương Vỵ
Lá daffodil thắt bím
Tập truyện “Lá Daffodil Thắt Bím” của nhà văn Nguyễn
Âu Hồng, do Thư Ấn Quán xuất bản vào mùa Xuân 2014, tuy khiêm tốn về số lượng
(5 truyện ngắn, trong đó, “Cây Lá, Chim Và Cá” là truyện ngắn viết năm 1972, 4
truyện còn lại: “Lá Daffodil Thắt Bím”, “Mũi Tên”, “Mùa Cá Bẹ”, “Hoa Trâm Trâm”
viết năm 2014, tại Hoa Kỳ,) nhưng giá trị văn chương, sức vang dội của cảm xúc,
tính nhân văn nồng ấm sâu xa, đã đọng lại trong tôi một niềm tri ân chân thành
với tác giả.
Trong phần Thay Lời Kết ở cuối sách, nhà văn Trần Hoài
Thư đã viết về người bạn của mình như sau:
“Nguyễn Âu
Hồng đến với văn chương rất sớm. Tôi biết anh nhiều, chẳng những qua những tạp
chí Saigon mà chúng tôi cộng tác, mà còn qua những tháng ngày trôi nổi thanh xuân.
Những cây số, địa danh mà chúng tôi đã đi qua, dừng lại đều na ná giống nhau.
Nào là Bình Định, Phú Yên, nào là Bồng Sơn, Tam Quan, nào là Pleiku, Kontum…
Lại thêm một chỗ trở về sau những ngày lênh đênh. Đó là thành phố Nha Trang. Đó
là căn gác gió ở nhà sách Huy Hoàng trên đường Độc Lập của những năm cuối thập
niên 60.
Nhớ anh là
nhớ đến ánh mắt sáng và nụ cười rất tươi. Nhớ anh là nhớ đến lần anh đã lên tận
ngọn đồi Bà Gi, hậu cứ của đại đội 405 Thám Kích, để thăm tôi, khiến tôi ngỡ
ngàng hết sức. Anh bảo, nhân công tác vùng này, nên ghé thăm bạn. Hai đứa với
bộ quân phục phong sương, đèo Honda xuống chợ quận, tìm quán nhìn cô hàng cà
phê. Ôi, những sợi khói thanh xuân mà khó có thể gặp được trong một đời người.
Chúng trở thành hoài niệm. Dù bay loãng vào không gian, nhưng không thể bay tan
trong trái tim của chúng tôi. Chúng là những nối kết, mang những trạm hành kỷ
niệm về với những kẻ xa xứ…” (tr.
133-134)
Tuy chưa gặp anh ngoài đời, nhưng tôi cũng đã “gặp” Nguyễn
Âu Hồng từ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước qua một số truyện ngắn của anh được
đăng tải trên các tạp chí văn học nghệ thuật ở Sài Gòn. Giờ đây, ngồi đọc những
trang văn còn thơm mùi giấy mới (tập truyện ngắn của anh vừa mới ấn hành, gửi
tặng tôi qua đường bưu điện,) thật vui, cảm động và đầy bất ngờ. Tôi đã đọc
suốt đêm một cách trân trọng và thích thú. Với lối tả chân sắc sảo, tài hoa,
cấu trúc truyện rất bản lĩnh, ngôn ngữ điêu luyện, cùng với nghệ thuật hành văn
cuốn hút, ẩn sâu ánh nhìn rất nhân văn, thơ mộng của tác giả, đã chạm vào trái
tim người đọc một niềm rung động sâu xa.
Truyện rất ngắn, “Cây Lá, Chim Và Cá”, viết năm 1972,
khoảng hơn 600 chữ, như một thước phim ngắn, ghi lại hình ảnh tàn phá kinh
khủng của chiến tranh vào thời điểm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, ở dọc hai
bên quốc lộ 1 thuộc ba tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định (địa danh thời VNCH.)
“Tôi chợt nghĩ, khi rừng cây không còn an
toàn đến chim phải bỏ mà đi thì rất có thể cá cũng đã bỏ vùng biển bất an nghèo
khó này để tìm đến vùng biển an ninh hơn… Những vùng biển thật an bình chỉ có
thể tìm thấy… bên kia bờ Thái Bình Dương mà thôi.” (tr.126.) Đoạn kết ngắn
gọn, lạnh lùng, ẩn sau tiếng thở dài chua xót cho một cuộc chiến ở 3 vùng đất
dọc theo quốc lộ 1. Truyện dừng lại ở đó, nhưng người đọc không thể dừng lại,
vì còn phải suy nghĩ, hình dung tiếp về các vùng miền khác của đất nước vào
thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh VN, không chỉ với con người, mà ngay
cả “cây lá, chim và cá” cũng phải
chịu chung số phận!
“Mũi Tên,” theo tôi, là một truyện ngắn độc đáo, đầy
tính ẩn dụ. Xin tóm lược: Lou Calakmul, một tay săn thiện xạ, đã bắn hạ con
ngỗng trời Giant Canada Goose. Mũi tên đã trúng đích, nhưng con ngỗng trời
chẳng những không gục ngã mà còn thoát được sự truy đuổi của Joker, con chó săn
thông minh của Lou Calakmul. Không vui vì chuyến đi săn thất bại. Nhưng điều
đáng quan tâm là, con ngỗng bị thương khá nặng nhưng đã trốn thoát, khiến tay
thợ săn bị ám ảnh và ray rức, mặc cảm tội lỗi vì cho rằng mình đã vô tình hành
hạ thú vật, đã để cho con ngỗng kia “phải
chịu đói, chịu đau đớn, chịu chết dần chết mòn, chết cách chậm chạp, chết từ
từ!” (tr. 29.) Lou Calakmul có người vợ là Nancy, bị strock nặng, đang phải
điều trị và được sự chăm sóc tận tình của ông ta. Họ là kết quả của một cuộc
tình đẹp thuộc dạng hiếm hoi: Lou Calakmul mang trong mình huyết thống bộ tộc
Maya, nổi tiếng hiếu chiến và hiếu sát trong lịch sử. Bất chấp các luật tục hà
khắc ngăn cấm, chia cắt của gia đình và giòng họ, Nancy đã dũng cảm đến với Lou
Clakmul bằng câu nói để đời:“Nếu thật lòng
yêu nhau và dám hy sinh cho nhau, thì bất cứ đâu trên đất Mỹ nầy, các cặp đôi
đều có thể tạo dựng cuộc sống và mưu cầu hạnh phúc.” (tr. 34.) Quả thật, họ
đã là một nửa của nhau, sống với nhau ngập tràn ân sủng và hạnh phúc, sinh hạ
được 2 con. Một hôm, sau khi hai vợ chồng thăm lại khu nghỉ dưỡng, họp mặt và
chia tay ở khu Golf club, trên đường lái xe về nhà, Lou Calakmul “thấy một con ngỗng lớn loại Giant Canada
Goose với một bên cánh bị một mũi tên còn ghim lủng lẳng, ngơ ngác đi qua đường.
Ông kịp lách tránh không cán con vật rồi tấp xe dừng bên đường. Ông mở cửa bước
xuống, mở cửa sau gọi Joker, thao tác thật nhanh. Joker còn nhanh hơn ông, cửa
vừa mở, nó liền phóng về hướng con ngỗng, Calakmul chỉ việc chạy theo. Con
ngỗng bị Joker tóm bắt khi đang lững thững cách đường khoảng mươi mét. Nó không
lôi mạnh hay tha con ngỗng hỏng chân mà ngoạm vào bên cánh không bị thương rồi
dẫn ngỗng cùng bước lại xa lộ, y chang cái cách một sheriff còng và dẫn một
nghi can… Thay vì cứ đứng đợi trên đường, để yên cho Joker làm nhiệm vụ, Lou
nôn nóng bước xuống ôm chầm lấy con ngỗng, gặp bờ dốc nghiêng và lớp cỏ ướt
sương trơn nhẫy, ông trợt ngã té nhào. Không rõ đầu ông va vào đâu hay vì lý do
gì mà ông ngồi dậy được, nhưng không đứng lên nổi. Ông gọi 911, xong lại gọi cho
Nancy.” (tr. 43-44.)
Đoạn kết của truyện:“Các bác sĩ không cho biết bao giờ thì Lou Calakmul thoát khỏi tình
trang hôn mê. Nhưng vợ ông, cô Nancy thì tin chắc như đinh đóng cột rằng ông sẽ
sớm trở lại bình thường, rằng ngoài cái tài bắn cung bách phát bách trúng, ông
còn có bản lãnh kiên cường và nghị lực phi thường của một chiến binh. Nancy tin
chồng cô sẽ bình thường trở lại để vẫy tay chào con ngỗng Maxima mà ông đã cứu,
ngày nó trở lại bầu trời. Nancy không hề biết rằng, có một con ngỗng Maxima khác
đang chết từ từ vì đang mang lủng lẳng một mũi tên bắn xuyên qua cổ. Đây là mũi
tên vô duyên nhất, và có lẽ là mũi tên cuối cùng của cung thủ Lou Calakmul.”
(tr. 45.) Một đoạn kết khép hờ và mở hờ, để người đọc cảm nhận và liên tưởng
theo cách riêng của mình. Hai mũi tên, hai con ngỗng, hai số phận. Mũi tên do
Lou Calakmul bắn ra, đã khiến cho một con ngỗng bị thương nặng, tuy thoát thân
được, nhưng phải chịu cảnh “đang chết từ
từ” ở đâu đó. Mũi tên thứ hai, không biết của ai bắn vào một con ngỗng khác
(cũng cùng một giống Giant Canada Goose,) nhưng may mắn hơn, được Lou và bệnh
viện cứu sống, được trả lại cho vùng trời tự do. Vì nôn nóng muốn cứu con ngỗng
kia (do bị ám ảnh, ân hận, ray rứt đã không cứu được con ngỗng trước đây do
mình hạ thủ?) Lou Calakmul đã trượt chân té ngã, hôn mê, chưa biết bao giờ mới
hồi tỉnh. Phải chăng, người thợ săn với “bản
lãnh kiên cường và nghị lực phi thường của một chiến binh” (tr. 45,) phải nhận lãnh cái hậu quả hiếu sát của
mình trước đây? Theo tác giả, với tư cách người dẫn chuyện, thì “Nancy không hề biết rằng, có một con ngỗng
Maxima khác đang chết từ từ vì đang mang lủng lẳng một mũi tên bắn xuyên qua
cổ. Đây là mũi tên vô duyên nhất, và có lẽ là mũi tên cuối cùng của cung thủ
Lou Calakmul.” (tr.45.) Liệu tôi có đi xa quá chăng trước một đoạn kết mang
tính ẩn dụ của “Mũi Tên,” gợi nhắc về qui luật Nhân-Quả hiện tiền? “Mũi Tên” thăng
hoa một câu chuyện tình đẹp của Lou Calakmul và Nancy, nhưng Lou Calakmul phải
thọ nhận Nhân-Quả, dẫu vô tình tạo nên điều ác? Có thể, theo tôi dự đoán, Lou Calakmul sẽ chìm trong cơn hôn mê dài và
rất khó có hy vọng hồi tỉnh để gặp lại Nancy. Một đoạn kết ngắn gọn, nhưng tính
ẩn dụ có sức vang rất xa.
“Mùa Cá Bẹ,” một truyện “ngắn”, đúng hơn là chuyện
vừa, khá công phu (trên 7000 chữ!) và lý thú nhất trong tập truyện, nếu bạn đọc
nào có đam mê về nghề câu cá và luôn cả nghệ thuật chế biến món ăn từ giống cá
bẹ, một giống cá đặc sản trên giòng sông Columbia, trải dài qua các vùng “Longview, Woodland, Washougal, qua khỏi
Boneville Dam lên đến Cascade Locks mới chịu dừng lại.” (tr. 49.) Truyện
lồng vào mối tình của ông Minh Le, người Việt Nam và Kyong-bin, một cô gái Hàn
Quốc. Những trang văn đặc tả về mùa cá bẹ, cách thức, qui trình, nghệ thuật câu
cá, chế biến món ăn cá bẹ… được tác giả mô tả một cách chi tiết, sinh động, với
một kiến thức khá phong phú. Những trang văn đẹp, giàu biểu cảm khiến tôi phải
đọc chậm, để mong thưởng thức được hết hương vị thơm ngon của loài cá hấp dẫn
nầy! Nhân vật chính trong truyện, Minh Le, qua trao đổi với người bạn gái
Kyong-bin về văn hóa ẩm thực khá thú vị và cảm động:
“- Người Nhật
và người Hàn Quốc coi các món ăn chế biến từ cá bẹ là “quốc hồn quốc túy,” chạm
tới cá bẹ là chạm tới niềm thương nỗi nhớ của họ…
- Ra vậy. Tôi
là người Việt Nam. Tôi chạm tới cá bẹ là để đỡ nhớ cá mòi. Mùi thơm của cá mòi
nướng đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam chúng tôi. Mùi vị của cá bẹ thua
xa cá mòi dù chúng cùng một gia đình. Nhưng có còn hơn không.”
Mẫu đối thoại ngắn gọn, nhưng sâu lắng nỗi niềm hoài
hương giữa hai người. Thì ra, văn hóa ẩm thực cũng là cội nguồn văn hóa của một
vùng miền, một dân tộc. Đồng cảm với văn hóa ẩm thực cũng là đồng cảm với văn
hóa vùng miền, dân tộc. Từ đồng cảm sâu xa, Minh Le và Kyong-bin đã yêu nhau
trên đất nước Hoa Kỳ, một xứ sở đã hợp lưu một cách diệu kỳ các nền văn hóa của
các vùng miền, các dân tộc. Một xứ sở của tự do đích thực, văn minh đích thực!
Đoạn kết của truyện là một bất ngờ lý thú:“Con
đường ngắn nhất để thẩm thấu một nền văn hóa là thông qua người đàn bà của nền văn
hóa đó.” (tr. 81.) Một thông điệp thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc khiến
chúng ta phải suy nghĩ.
“Hoa Trâm Trâm” và “Lá Daffodil Thắt Bím,” hai truyện
ngắn đã cho tôi nhiều cảm xúc, rung động nhất bởi tính chất lãng mạn, thơ mộng,
trong sáng tuyệt vời của hai câu chuyện tình. Tôi nghĩ, tác giả, người dẫn
chuyện, có thể cũng là nhân vật chính được hư cấu. Nếu có hư cấu, cũng chỉ là
cách làm cho phẩm tính văn chương trong truyện bay cao hơn, xa hơn.
Trong “Hoa Trâm Trâm,” câu chuyện tình thời trẻ dại
giữa Hùng (nhân vật xưng “tôi” trong truyện,) và Mén, cô gái cùng làng, thời
còn học sinh tiểu học. Ở một nơi chốn làng quê mộc mạc, thanh bình, trong dịp
nghĩ hè, Hùng từ tỉnh lỵ (học trung học) về thăm quê, gặp lại Mén qua những
buổi thả trâu ra đồng, sau 2 năm xa cách. Những mẫu đối thoại hồn nhiên nhưng
đã làm cho hai trái tim, hai tâm hồn của hai trẻ rung động. Cái rung động đầu
đời của thuở học trò vụng dại nhưng rất đẹp, đẹp lung linh như bóng nắng trưa ở
quê nhà. Hãy hình dung hai trẻ đang giải bày niềm vui với một quả duối chín vừa
hái được trên tay Mén. Quả duối chín mang hình trái tim nhỏ bé. Mén trao quả
duối chín sát môi Hùng:“Tôi đưa môi múm
quả duối chín vàng giữa lòng bàn tay Mén, vị ngọt của quả chín ngấm vào lưỡi
cùng lúc với hương vị ngọt ngào từ ẩn dụ của Mén làm tôi đê mê. Tôi muốn hôn
lên đôi má rám nắng ửng đỏ, đại biểu thơm tho của tâm hồn Mén trắng trong, tôi
muốn hôn lên đôi môi hồng tươi tắn, đại biểu khả ái của trái tim Mén ngọt ngào.
Tôi muốn lắm, tôi ước ao mà chẳng dám. Rồi tôi tự an ủi, mà cần gì phải hôn,
phải nếm, chỉ cần gần kề Mén thôi, lặng lẽ hấp thụ sự tinh khôi giản dị từ tấm
lòng trinh bạch của cô bé tỏa ra, cũng đủ hạnh phúc” (tr. 103-104.)“Ngồi yên được một chặp, thì Mén ngập ngừng
đặt một bàn tay lên vai tôi. Tôi chưa nhận biết cảm xúc mình một cách rõ ràng
thì Mén đặt một bàn tay nữa lên vai bên kia. Rồi cả hai bàn tay nhè nhẹ kéo tôi
ra sau: Mén kéo người tôi ngửa ra dựa vào hai gối khép lại của cô bé. Đầu gối
và ống quyển nào có mềm mại gì đâu mà sao tôi cảm thấy êm ái lạ thường, cả hồn
vía, cả người tôi đều lâng lâng bay bổng”... “cô bé choàng tay đưa ra trước mắt
tôi mấy cánh hoa trâm trâm bé tí như bông khế”… “không hiểu sao trên mái tóc
tôi lại vướng nhiều hoa trâm trâm quá. Mén cứ liên tục đưa bàn tay có mấy cánh hoa
ra trước mặt tôi. Tôi nhâm nhi mấy cánh hoa có dính mồ hôi của Mén lẫn với mùi
tóc của chính mình, lúc đầu chẳng thấy có gì đặc biệt, nhưng rồi cái hương vị
ngọt ngào cứ ngấm vào người làm tôi đê mê”… “Rồi tôi ngủ hiền lành như đứa trẻ
ngây thơ ngủ say trong lòng mẹ”… “Lòng mẹ! Sự nồng ấm tinh tươi từ tấm lòng
trinh bạch của Mén cũng bao la như lòng mẹ vậy”… “Khi thức giấc, quả nhiên tôi
đang nằm trong tư thế của đứa bé đang bú sữa mẹ, nằm trong lòng Mén. Miệng tôi
cũng đang kề bầu sữa, nhưng nó còn nhỏ xíu như cái chũm cau. Cái chũm cau không
có mùi cau, cũng chẳng thơm mùi sữa, mà thơm mùi con gái tuổi chớm xuân, mùi
hương đồng cỏ nội, mùi hoa trâm trâm phảng phất…” (tr. 108-109-110.) Đây là
những đoạn văn đẹp và thơ mộng nhất trong truyện.
Vỏn vẹn chỉ có ba buổi chiều, để rồi chia biệt!“Chiến tranh đã cướp mất tuổi hoa niên và
tuổi trẻ của hai chúng tôi, của bạn bè tôi”… “Sợ bị lộ nên Mén và các bạn ra đi
mà không nhắn lại một lời nào.” (tr. 112)
Sau 1975, Hùng được tin Mén vẫn còn sống. “Mén bây giờ là Lan, một Lan xa lạ đến ngỡ
ngàng.” (tr.117.) Hùng nhìn thấy Mén trong dịp Cúng Xuân tại đình làng Nam
tại quê nhà, nhưng quyết định không chạm mặt. Vì sao?!
“Thời gian
ơi, tuổi thơ ơi!
Đâu rồi vẻ
tươi non trinh bạch của tuổi chớm hoa xuân!
Đâu rồi vẻ
tinh khôi giản dị của đóa hoa đồng nội!
Mén hồn nhiên
vĩ đại sống mãi trong lòng tôi!
Tôi không
biết, tôi không cần biết Lan, Thảo, Loan, Gáo gì hết. Trả Mén lại cho tôi! Trả
tuổi thơ lại cho chúng tôi!
Trả chúng tôi
lại đám ruộng mạ để tôi chuộc lỗi lầm khi thi tài hát đối đáp, đã vô tình xát
thêm muối vào cõi lòng nát tan của Mén!.” (tr. 119.)
Truyện khép lại bằng giấc ngủ mơ màng của Hùng, giấc
ngủ được ướp “trong mùi hương kỳ ảo của
chũm vú cau thoang thoảng mùi hoa trâm trâm.” (tr. 120)
Đọc chậm lại những giòng chữ cuối cùng của câu chuyện,
tôi tạm gấp sách lại, nhẹ nhàng châm một điếu thuốc. Một thời điêu linh của đất
nước, quê nhà. Tuổi thơ, tuổi trẻ của hầu hết thế hệ chúng tôi là như thế đấy.
Sáng trong, hồn nhiên, lãng mạn nhưng phải thọ nhận rất nhiều bi kịch. Những bi
kịch ấy là những vết thương chưa lành, vẫn còn nhức nhối trong tâm can cho đến
tận bây giờ!
“Lá Daffodil Thắt Bím,” truyện ngắn chính của tập
truyện, đẹp và tươi rói chất nhân bản, nhân văn. Ông Tân, người làm vườn, định
cư ở vùng hạ lưu sông Columbia, láng giềng của bà Barbara, một bà lão đã 80
tuổi, góa chồng (Jack, chồng của Barbara đã tử nạn trong một tai nạn xe hơi,
sau 2 năm nghỉ hưu.) Sống đơn chiếc, Barbara làm quen với ông Tân để nhờ phụ
giúp một số công việc chăm nom cây cối vườn nhà. Từ quen biết, họ trở nên thân
thiết. Hãy hình dung Barbara, theo cái nhìn của ông Tân:“Tân bước theo sau, nhìn hai mông đít khổng lồ của bà ngoe nguẩy phía
trước mà cười thầm trong bụng…” (tr. 10.) “Nhìn hai mông đít khổng lồ của bà ngoe nguẩy phía trước, lần nầy,
ngoài việc cười thầm trong bụng, ông còn miên man nghĩ về những trái chín cuối
mùa trên xứ sở Hoa Kỳ.” (tr. 12.) Cách đặc tả Barbara được lặp lại hai lần,
khắc họa “hai mông đít khổng lồ” một
cách hài hước, hóm hỉnh rồi lại liên tưởng đến“những trái chín cuối mùa trên xứ sở Hoa Kỳ” ở đoạn văn thứ 2 càng
làm cho hình ảnh Barbara thật ấn tượng, vừa mạnh mẽ, vừa đáng yêu. Và đây là
tính cách nổi bật của Barbara:“…Bà
Barbara lại xăm xăm bước tới. Bà chào ông Dorn rồi bất ngờ giơ cao bình thuốc,
cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn , tươi tắn đến bất ngờ so
với độ tuổi đã ngoài bảy mươi của bà. (tuổi tác là ông Tân đoán mò mà thôi.)” (tr.12.)
“...Tân định quay ra gọi thì Barbara xuất
hiện đúng lúc, vừa mở khóa vừa cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng hết cỡ tươi
tắn đến nỗi Tân bị bất ngờ thêm một lần nữa.” (tr. 13.) “…Mới hôm qua đây thôi, khi thổi tắt hết đám
đèn cầy, bà bước lùi một bước tránh khói, ưỡn người hít thở một hơi thật sâu
rồi cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn, tươi tắn đến nỗi những
người có mặt phải ngạc nhiên.”(tr. 21.) Tiếng cười độc đáo của Barbara được
nhắc lại 3 lần, là có chủ ý của tác giả, nhằm tôn vinh một sức sống, một niềm
tin yêu mạnh mẽ lạ thường đối với cuộc đời của người đàn bà già lão kia. Từ khi
Jack mất, Barbara sống trong nỗi cô đơn ngút ngàn. Và kỳ diệu thay, chính nỗi
cô đơn ấy, tiếng“cười ha hả, cười lớn hết
cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn, tươi tắn đến bất ngờ” ấy, đã làm cho người đọc rung động sâu xa hơn qua đoạn văn và đoạn
thoại sau:
“Mặc dù đang
chìm đắm trong mộng ảo, ông Tân vẫn nghe được tiếng bước chân đạp lên lá mục,
rồi ông nghe được hơi thở và ngửi được mùi đàn bà phát ra từ cơ thể Barbara.
Đứng yên một chặp, ông quay sang nói:
- Barbara, bà
không nên ra đây. Ngoài nầy lạnh lắm.
Barbara không
trả lời, chỉ lặng lẽ nhìn người đứng cạnh. Ông Tân hơi ngạc nhiên. Ông nhìn
Barbara kỷ hơn và thấy những nét đẹp của thời thanh xuân như còn lưu lại trên
khuôn mặt người đàn bà đã cao tuổi với sóng mũi thẳng, hai cánh mũi túm gọn tao
nhã, đôi mày cong diễm lệ và đẹp nhất là đôi mắt, đôi mắt huyền thoại phơn phớt
màu tím hoa cà…Barbara cứ đứng một chỗ, hết nhìn ông Tân, lại nhìn ra khu rừng.
Rồi bà nói nhỏ như thì thầm:
- Gọi tên tôi
một lần nữa đi Tân.
- Barbara! Bà
có sao không?
- Xin gọi tên
tôi…
- Barbara,
tôi nghĩ chúng ta nên đi vào. Ở ngoài nầy lâu sẽ bị cảm lạnh mất.
- Xin gọi tên
tôi, dù…
- Barbara…
- Tiếng anh
gọi tên tôi nghe sao dịu ngọt như anh Jack yêu quí của tôi gọi tôi lúc chúng
tôi còn tuổi trẻ.
Ông Tân tưởng
Barbara bị mộng du nên đặt hai tay lên vai lay cho bà tỉnh. Barbara nói, giọng
mơ màng:
- Tân ơi, anh
ôm tôi đi. Xin vui lòng cho tôi một vòng tay ôm.
Ông Tân hơi
ngập ngừng, nhưng giọng nói và ánh mắt của Barbara van nài tha thiết quá, khiến
ông không dừng được. Ông bước tới một bước, vòng tay quanh người Barbara”… “Đây
là một vòng tay ôm nhớ đời. Họ đứng yên một chặp, có cảm giác như quả đất cũng
đứng yên. Bỗng ông Tân đâm hoảng: Tấm thân đồ sộ chắc nịch của Barbara trong
vòng tay ông như tan chảy, mềm dần…”
“Phần
Barbara, trong phút giây đó. Trong vòng tay của người đàn ông Á Đông nhỏ bé đó,
bà như sống lại toàn bộ tuổi trẻ, đầu tiên là tiếng gọi dịu ngọt thân thương
của anh Jack yêu quí, tiếp theo là những ngày thanh xuân mê đắm trong tình yêu
và tràn đầy nhiệt huyết với đất nước…”
“Trong mê đắm,
hai người há hốc miệng như đang ăn sương giá, như đang uống nắng trời. Ông Tân
mơ màng như đã uống vào người cái màu nắng trùng với màu mắt của Barbara, màu
nắng huyền thoại phơn phớt tím hoa cà…” (tr.14-15-16.)
Một người đàn ông trung niên cô đơn nơi xứ lạ quê
người, một người đàn bà già lão cô đơn khi người chồng yêu quí đã mất, luôn
hoài niệm về một tình yêu rất thơ mộng, đẹp đẽ thời tuổi trẻ, ngập tràn xuân
sắc. Hai chiếc bóng cô đơn ghì siết vào nhau giữa đất trời lồng lộng. Có hình
ảnh nào đẹp và nhân văn hơn chăng?! Họ đã vượt lên trên cái gọi là tình yêu đôi
lứa, mà đúng nghĩa, đây chỉ là tình người lung linh, thẳm sâu, tràn đầy xúc
cảm.
Cái cách mà Barbara thắt bím cho những chiếc lá
daffodil cũng rất nhân văn:“Mùa xuân vẫn
đang ngự trị, nhưng hoa daffodil đã tàn úa. Thông thường, người ta túm cả lá và
cuống hoa bẻ quắp rồi cột lại, từ xa trông như những bó mạ. Bà Barbara không
làm như vậy. Từ tiềm thức văn hóa cực kỳ thơ mộng, Barbara đã ngồi xuống bên
khóm hoa tàn, tẩn mẩn vuốt từng chiếc lá rồi thắt thành bím như người ta thắt
bím tóc hình con rít. Hết khóm nầy đến khóm khác, bà vuốt những chiếc lá với
một cảm xúc càng lúc càng ngây ngất…” (tr. 20.) Đó cũng là mùa xuân cuối
cùng của Barbara! Bà đã vĩnh viễn nằm xuống. Đôi mắt phơn phớt tím màu hoa cà
đã nhắm lại. Giọng“cười ha hả, cười lớn
hết cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn, tươi tắn đến bất ngờ” cũng đã tắt:
“Ông Tân đứng
nơi góc xa ấy để tìm lại màu nắng của năm xưa, một màu nắng huyền diệu, không
vàng không thắm cũng không thắm không hồng, một màu nắng phơn phớt tím hoa cà
liên tục chuyển động, lung linh kỳ ảo, nhưng ông không tìm được. Làm sao ông
tìm lại được cái màu nắng ấy khi mà đôi mắt có màu tím huyền thoại của Barbara,
đôi mắt lần cuối cùng ông nhìn ngắm, trong đêm sinh nhật định mệnh, trông liêu
trai huyễn hoặc và diễm lệ lạ thường, đã khép lại.” (tr. 22.)
Và ông Tân, cũng đã già: “Năm rồi, khi ông ngồi xuống vuốt những chiếc lá daffodil để thắt bím,
ông có cảm giác như đang chạm vào người Barbara. Hết khóm này đến khóm khác,
ông vuốt những chiếc lá với cảm xúc càng lúc càng ngây ngất, ngây ngất đến mức
tuổi tác không khứng nổi. Về đến nhà, ông tân tiếp tục thăng hoa và ngủ một
giấc êm đềm…” (tr. 23.) Truyện kết thúc bằng ba dấu chấm như ba nốt nhạc xa
xôi trôi mãi.
Phác thảo chân dung Nguyễn Âu Hồng dinhcuong - 2014 |
Thể loại truyện ngắn, theo tôi, quan trọng nhất là cấu
trúc, hình tượng và ngôn ngữ. “Lá Daffodil Thắt Bím” là một tập truyện rất
chỉnh chu cả về cấu trúc, hình tượng và ngôn ngữ. Điều đáng quí là với tuổi đời
đã bước qua buổi xế chiều, nhưng nhà văn Nguyễn Âu Hồng vẫn lặng lẽ nuôi dưỡng
ngọn lửa đam mê văn chương hiếm thấy. Với vốn sống từng trải, kinh nghiệm chữ
nghĩa dạn dày, lịch lãm, tôi tin rằng, nhà văn Nguyễn Âu Hồng vẫn còn sức sáng
tạo bền bỉ, vững vàng. Chân thành chúc mừng anh và hy vọng sẽ được đọc thêm
những tác phẩm mới của anh.
Nguyễn Lương Vỵ