Nhà văn Lê Văn Thiện
Bây giờ còn sớm quá, trời đất lờ mờ. Kiên đạp xe nhanh xuống
đường cái, một cây xoài to ngã nghiêng bên đường như một người khổng lồ mang áo
tơi đứng đợi ai. Chưa có người nào đi chợ. Một chú gà cồ nhỏ trong cái nhà cạnh
đường bỗng ó lên, nhưng tiếng gáy đứt phựt, tức tối. Kiên nhìn ra, tầm mắt
không tới khúc quanh của con đường ngoài kia, chỉ thấy lối mòn trắng ở giữa,
cong queo. Tháng này không phải là tháng Chạp. Những ngày cận tết người ta đi
chợ sớm lắm, gà gáy một hai lần đã có tiếng nói ngoài đường. Hình như không ai
biết mỏi cẳng vì quãng đường dài bảy cây số từ làng đến chợ lớn trên quận, nhất
là những cô bé có khi hai ba tháng mới được đi một lần. Ở nhà làm quần quật cả
ngày, được đi chợ là được nghỉ ngơi, lại thêm có dịp xem hàng quán nhộn nhịp,
vui tươi. Nên đêm sửa soạn mấy thúng rau
trái để sáng vô chợ bán cũng là đêm khó ngủ được.
Kiên chống xe, ngồi xuống cỏ. Khỏi làng một chặp có con
truông khá dài, hai bên là rừng chồi, cây mọc trên cát, con đường lên quận bò
ngang qua đó. Chiều xẩm và lúc mờ sáng qua truông thấy dễ sợ lắm, hồi trước sợ
cọp bây giờ sợ ma. Mấy đứa trẻ nhỏ thì ngán bà Lên, Kiên cũng vậy. Trước kia vợ
chồng bà ta có cái nhà ở đầu truông, nhưng làm ăn không khá nên cách đây gần
hai năm hai vợ chồng bỏ vô một làng trong đó ở. Lối nửa năm sau, một buổi chiều,
bà vợ ra mò cua dưới con sông cạnh đó chẳng may sụp búng, chết đuối. Xác bà ta
theo nước sông chảy xuống, ra biển. Và dễ ớn hơn nữa là cái xác ấy lại lần mò tấp
về làng cũ, dưới bến, chỗ neo mấy chiếc ghe chài. Sự việc hãy còn mới nên đi
ngang truông một mình, mấy đứa bé sợ phải gặp bà Lên về ngồi trên nền nhà cũ,
tóc tai phủ mặt phủ mày như cái xác khi được vớt bỏ nằm dưới bến.
Vẫn chưa thấy người nào qua lại. Kiên vơ vẩn ngước lên nhìn
trời. Trống nhà làng đột nhiên vang lên, tiếng thật trong và rõ. Trống gọi dân
làng đưa đám ma. Làng này có thói quen: nếu có người chết, mọi người phải nghỉ
việc để đến thăm tang gia và phúng điếu kẻ quá cố, dù quen hay lạ. Cho nên
nghèo cùng đến mấy, người chết vẫn được ấm cúng và tang chủ vẫn có đủ tiền làm
ma chay. Để việc này mãi mãi hiệu lực người ta thường nhắc: ngày có người chết,
ai bỏ đi làm, sau này trong gia đình người ấy có thế nào thì phải tự lo liệu lấy,
ráng kênh vác xuống gò mà chôn. Tiếng trống đình luôn luôn thúc giục dân làng
nên đi làm việc nghĩa, cho người và cũng là cho mình.
Kiên mừng rỡ đứng lên, vừa nghe có tiếng nhiều người nói
chuyện xen tiếng cười. Một tốp năm người đàn bà gánh thúng mủng bước đi nhanh.
- Ý! Ông địa ơi!
Một bà đâm bổ tới sát chiếc xe đạp. Mấy bà khác dừng lại.
- Ai đứng kỳ vậy?
- Dạ con.
Bà mặc áo dài đến nhìn mặt Kiên.
- À thằng Kiên. Tưởng ai.
Bà la ông địa để gánh xuống, Kiên nhận ra dì Tâm:
- Mầy đứng tần ngần làm tao mất hồn. Đi đâu sớm vậy Kiên?
- Dạ, con vô chợ mua cho thằng Tình hộp sữa. Nay nó yếu
quá.
Dì Tâm chặc lưỡi:
- Thằng bịnh cả đời.
Tội quá, nếu để nó sống thì cho nó mạnh đi, hành hạ thân xác nó tội nghiệp.
Kiên thấy câu nói của dì giống mẹ mình. Những ngày em
Tình trở bịnh nặng mẹ Kiên vẫn thường nói như thế. “Thánh thần cô cậu có để nó
sống thì cho nó lành bịnh, còn số nó không ở được với cha mẹ anh em thì hãy đem
nó đi, đừng hành nó tội nghiệp.” Thằng bé thân thể gầy gò trăn trở trên gường bịnh
làm mẹ nó đau lòng, cúng vái lung tung. Kiên thì không tin rằng cô cậu nào bắt
nó. Thằng nhỏ mang bệnh tật vào mình từ khi chưa đầy một tuổi. Thầy phù thầy
pháp có, nhà thương bác sĩ có, nhưng nó vẫn phải mang lấy một cái tay quẹo, đôi
chân đi không vững, và suốt bảy năm trời, bảy tuổi, chỉ mạnh được một hai năm
là cùng. Bây giờ thì gần chết.
- Nhưng sao mày đứng
đây? Thím Hải hỏi.
- Dạ, còn tối con
sợ quá. Kiên cười.
- Thằng nhát như
thỏ. Mày phải biết: mấy năm trước, hồi chưa có lính canh gác như bây giờ, một
mình tao ở quận về lúc nửa đêm, còn dám nữa là.
- Dạ hồi đó chắc
bà Lên chưa chết?
- Chuyện! Chết sống
cũng vậy. Bây giờ đã nằm xuống đất bà ấy cắn mổ được ai mà sợ.
Thím móc túi,
hình như lấy trầu. Kiên dắt xe theo sau, tốp đàn bà đi trước. Trống làng lại
vang lên, nện mạnh từng tiếng. Mợ Tần sang vai gánh:
- Chắc cũng xế đám
mới đi?
- Không xế thì
trưa. Còn chờ thằng con út ông ấy về.
- Đứa nào?
- In như thằng Hạnh.
Con trai ổng bốn năm đứa dễ lộn lắm..
Thím Hải trầm ngâm một lát:
- Đúng rồi. Thằng
Cả nằm nhà, mấy thằng lớn đi lính xa, chỉ có thằng đó nhỏ nhất mà đi xa nhất, tận Kontum, Pleiku gì lận. Hồi còn sống
ông Canh nhắc nó luôn.
Tới đầu làng bà mặc áo dài đi rẽ lên, bà viếng đám tang. Nghe có tiếng
kèn đám chết kêu ngắc ngứ trong nhà thợ Năm, mợ Tần nói nhỏ:
- Gớm! Cái thứ ấy
mà thổi thử trong nhà trong cửa. Hư hao gì thì đến nhà đám sửa chứ. Nghe phát
khiếp.
Dì Tâm cười:
- Ông ấy thường
làm vậy rồi. Đám nào ổng cũng đem kèn ra, thử đi thử lại cả buổi. Lại còn rung,
còn ngân rồi khè khè xuống như khóc, ngán.
Dì quay lại:
- Thằng Kiên thật
có công. Đem xe mà dắt bộ. Như tao thi nãy giờ đã gần tới chợ.
Mợ Tần hỏi:
- Liệu em mày có sống
được vài ba tháng nữa không? Tao thấy sợ...
Mợ nghĩ một chút và tiếp:
- Như việc ai cũng
phải đi phúng điếu người khuất, làng này có cái lệ thường chết cặp đôi. Để ý
thì biết ngay. Tháng sáu năm ngoái ông Trường chết buổi sáng, xế một chút thì
con Cương chết, cả hai đều bịnh lâu năm. Hôm tháng chạp bà Sáu chết bữa trước,
hai ba bữa sau thằng nhỏ con ông Xê chết theo. Mấy năm trước cũng như vậy luôn.
Nay ông Canh mới chết, mà thằng em mày bịnh nặng, tao e quá.
Kiên im lặng không nói gì. Dễ nhớ nhất
là năm cha Kiên mất, hôm sau cũng có người chết: bà mẹ anh Thư ở cùng xóm, cách
nhà Kiên một đám ruộng. Biết đâu lần này thằng Tình lại không theo ông Canh.
Qua hơn nửa truông, trời đã sáng tỏ.
Kiên lên xe đạp đi, mấy người đàn bà bước thong thả đằng sau, tiếp tục nói chuyện.
Đến quận hãy còn sớm, mới có một vài
hàng mở cửa, chợ chưa có ai. Kiên hỏi mua hộp sữa và về ngay. Mặt trời mọc, con
đường lớn nhiều người qua lại, đông nhất vẫn là kẻ đi chợ. Kiên hối hả đạp xe
nhanh, bây giờ có lẽ bọn học trò đã đến nhiều. Thằng Tình không ăn uống gì từ
hôm qua. Kiên nhớ đến ông Canh. Lời mợ Tần ban nãy. Đứa học trò gái ngồi chồm hổm
trên ghế, Kiên còn nhớ rõ cử chỉ con bé: nó xòe bàn tay ra, mấy ngón như cung lại,
nó nói với mấy đứa bạn:
-
Hòn dái ông Canh bây lớn vậy nè.
Mấy thằng nhỏ bật cười. Một đứa hỏi:
-
Sao mấy biết?
- Hồi trưa tao
theo con Lại vô coi. Con Lại nói ông nội nó gần chết rồi. Tao thấy ổng nằm trên
giường, một đổi lại lăn qua bên này, rồi lăn qua bên kia. Ổng rên nữa, rên lớn
lắm.
Nó chu miệng và giơ bàn tay lên, lập lại điệu bộ lúc nãy:
xòe bàn tay ra, cung các đầu ngón lại:
- Lạ lắm! Ổng nằm
ngửa trên giường, chỉ bận áo, không bận quần. Hòn dái ổng sưng thiệt là to, bây
lớn vậy nè.
Mấy đứa nhỏ cười sặc. Con bé thêm:
- Cha con Lại quỳ ở
đầu giường khóc, nó cũng khóc. Tao sợ quá bỏ chạy về.
Xế hôm qua ông Canh gần chết, sáng hôm nay ông ấy đã chết.
Bây giờ thằng Tình yếu quá, nó gần chết. Chiều nay hay sáng mai, biết đâu nó lại...
Kiên đạp xe rẽ lên lối nhỏ về nhà. Một tốp học trò đang
đi ở trước, thấy Kiên chúng dừng ngay lại, lật mũ bỏ nón chào:
- Anh Năm.
- Anh Năm.
- Đi đâu về sớm
anh Năm?
Kiên gật đầu cười. Bọn nhỏ chạy theo xe, Kiên đạp chậm lại:
- Làng đi đám chưa
các em?
Con Đan nhanh nhẩu:
- Dạ mới đi đây.
Hai ông khiêng trống đi trước, ông xách chiêng sau, rồi tới mấy người cầm cờ,
đi vô ngõ giữa. Lúc trống làng vô em chạy xuống coi. Người ta thiệt nhiều, có
trò Trừ nữa, em rủ đi học, trò ấy biểu coi chút nữa, người ta đông đảo vui quá.
Thằng Quý hỏi:
- Sao hôm qua nó
nói ở nhà ông Canh thấy sợ lắm, bữa nay nó lại xuống coi?
- Nay người khóc
nhiều hơn hôm qua, nhưng ông Canh đã bị bỏ trong hòm, đậy kỹ rồi ít sợ. Đan trả
lời thông thạo.
Kiên chống xe xuống sân, đem sữa vô nhà. Tình nằm, mắt nhắm
nghiền, nó thở hơi lên. Mẹ Kiên ngồi đầu giường:
- Em nó mệt lắm rồi
con ơi!
Kiên thấy mình muốn khóc.
Tám giờ đúng. Kiên móc túi lấy còi thổi. Bọn học trò ào
ào chạy vô lớp, bàn ghế đụng nhau lạch cạch. Thằng Chút nói:
- Mình vô lớp sớm
quá. Chưa nghe trường công đánh trống
Con Ngào nhìn nó:
- Ừ, bữa nào trường
mình cũng vô trước một chút. Sớm càng ngon.
Kiên vỗ hai tay vào nhau:
- Các em nghe
đây...
Bọn học trò ngẩng đầu lên, im lặng:
-...Em Tình bịnh nặng, các em không nên đùa giỡn inh ỏi
như mọi bữa, nghe chưa?
Chúng nó đáp một rập:
- Dạ...ạ...
Kiên viết bài tập trên bảng. Sáu đứa Lớp Tư ngồi ngay ngắn
trông. Bàn Lớp Ba, những đứa học trò lớn nhất trường,. còn lục đục, đứa viết, đứa
kẻ, đứa cào bút sồn sột xuống mặt ghế. Chỉ có bọn Mẫu Giáo, lực lượng đông đảo
nhất, là ồn ào hơn cả. Một số học bài, đánh vần rào rào, số khác quay qua quay
lại cãi nhau. Tiếng con Đan:
- Sao không nghe
tiếng trống đám chết nữa hé?
Thằng Châu nói:
- Chắc đã chôn rồi.
- Ẩu, người ta nói
đến chiều mới đem đi
Con Phụ dự vào, tiếng nói ồm ồm:
- Ai nói? Cứ láo,
đến xế thì chôn.
Mỗi đứa góp một câu, loạn lên. Kiên gõ mặt bảng cộp cộp:
- Im đi chứ. Em nào còn nói chuyện bị đòn bây giờ.
Học trò thì giống nhau, lớn hay nhỏ nghịch ngợm, quấy
phá, ồn ào. Kiên thấy ngán bọn đệ tử nhóc của mình. Dù đã rất cố gắng quất mạnh
tay roi lên đầu lên mông chúng, nhưng lũ nó vẫn không sợ. Không phải là không sợ.
Chúng sợ, nhưng chỉ những lúc bị đánh, sau đó chúng lại tật nào hoàn tật ấy: thọc
trước, thọc sau, thầm thì, rì rào rồi ồn lên, lan to ra như gió lốc. Cách đây
chín tháng, Kiên cũng ở trong cái thành phần dễ sợ này. Lớp Kiên có sáu chục đầu
nhưng thường thì ít khi có mặt ở trường đông đủ, mặc cho đó là năm thi. Không hẳn
lớp này nghịch phá nhất trường, nhưng nó cũng loạn lắm. Nạn nhân bị đem ra quấy
chọc nhất là hai ông thầy quan trọng: một cụ quốc văn, cụ này dĩ nhiên là già,
vì già mới cụ. Thứ đến là ông toán, anh này trẻ trạc nửa đời thôi. Anh được ông
trời tạo ra một cái hình dáng rất dễ cho
bọn học trò vẽ. Chỉ cần vạch một cái đầu dài, phải cho dài, và cẳng cũng dài là
đã giống. Thêm nữa, dường như để thuận ý
trời, anh thầy này còn tự tạo cho mình vài nét dị biệt khác: cái đầu hớt cao,
ít chải, trước trán thường có một lỏm tóc ngã phủ xuống. Và, theo trào lưu mới,
anh mặc những cái quần ngắn mà mấy thằng bạn Kiên quả quyết rằng ống chỉ rộng
chừng 16 hay 14 phân. Anh ta dạy toán, giảng mau, hay nhưng phải cái chứng hay
gắt, cứ luôn cao giọng: “Các anh học lối
này thì khi thi sẽ rớt như mít rụng, để mà xem.” Câu này anh đem áp dụng thường
trực, giờ dạy nào cũng nói như vậy ít ra một lần. Và...lâu lâu, mới bước vào lớp,
nhìn lên bảng anh ta đã thấy một hình người, đàn ông, mặt dài, chân dài, tóc hớt
cao, mặc cái quần tới đầu gối, và từ đầu gối trở xuống lông mọc đâm tua tủa.
Bên trên, trước cái gạch làm miệng có một vòng tròn lớn đâm ra trước, giống như
một thầy phù thủy chụm miệng phun bùa phép. Trong cái vòng đó có hàng chữ: “Các
anh phải liệu lấy thân, cứ học theo lối nầy
thi khi thi sẽ rớt như mít rụng...để mà xem”. Anh thầy đứng trông, sững
sờ. Bọn học trò im thin thít, ra tuồng đứng đắn.
Với cụ quốc văn
trường hợp này cũng có thể xảy ra, nhưng chỉ độc một lần. Hôm đó, ngay khi thấy
giữa tấm bảng đen có mấy nét nguệch ngoạc hình dung một cái đầu khỉ, khỉ có mang
gương, cụ hầm hầm quay xuống, xông vào phòng ông hiệu trưởng và nằng nặc xin
thôi. Cụ nói: “Tôi dạy đã mấy chục năm trời chưa thấy bọn nào quá quắt như vậy.”
Ông hiệu trưởng nổi trận lôi đình, và sau đó toàn lớp bị đuổi cảnh cáo bảy
ngày. Không ai chứng nhận nhưng bọn học trò đều đồng ý ngầm rằng cụ quốc văn giống
hệt như con khỉ, giống ở cái mặt hóp. Từ đó, từ bữa bị chỉnh, cụ quốc văn không
được thấy mình bị phác họa lần nào nữa, nhưng chưa phải đã là hết, chúng còn
tìm nhiều cách chọc làm ông già giận phát run và đâm ra ngại mỗi khi bước chân
vào cái lớp ấy.
Ra xong hàng chữ viết tập cho lớp Năm, Kiên cầm sách đọc
chính tả. Tám đứa lớp Ba cắm cúi viết. Thằng Giác ngồi khuỳnh tay, bẹt chân, bộ
tịch dềnh dàng, lấn cả chỗ đứa bạn bên cạnh. Tài huých hông Giác phản đối:
- Ngồi gọn lại chút mậy, giơ cả càng que ra làm sao tao
viết.
Thằng Định mắt lấm lét, đang chăm chú viết bất thình lình
chồm lên liếc nhanh qua vở Tài. Thấy rõ
được cái chữ mình đánh vần mãi không ra, nó lanh lẹ viết lấp vào chỗ trống.
Bắt được, Tài chộ:
- Ê, đừng cóp chớ. Tao mét anh Năm bây giờ.
Không đáp, Định cúi đầu sát vở mình, làm như chẳng nghe
thấy. Có tiếng động ầm ỳ, tiếng máy nổ thì phải, nghe hơi xa.
Tàu lửa!
Đang viết Châu ngửng lên:
- Tàu lửa hả, đâu?
- Ầm ầm đó.
Con Đan trả lời và nhìn ra sân. Chúng lắng tai nghe. Chợt
con Phụ nói, tiếng ồm ồm:
- Hổng phải.
Mấy đứa lớp Ba quay lại, ngơ ngác.
- In như máy bay,
hổng phải tàu lửa.
Tiếng động cơ lớn dần và bây giờ đã rõ. Một đoàn phi cơ bay rầm rầm qua, chúng
giống nhau, cũng trục lúc và mỗi chiếc mang một cái chong chóng to trên lưng,
quay tít. Bọn nhỏ cũng chồm lên nhìn ra sân, Giác tỏ ra hiểu biết:
- Máy bay chong
chóng, cứu thương.
Tài phụ họa:
- À, anh hai tao
cũng nói, thứ này bay đi cứu thương.
Nó nhỏ giọng, vẻ quan trọng:
- Bữa nay chắc
ngoài đó đánh nhau dữ lắm...Đến mười mấy chiếc cứu thương bay ra!
Định nghe, dáng chăm chú. Bỗng nó hỏi:
- Ở ngoài nào có
đánh nhau, Tài?
Thằng nhỏ làm ra kẻ lớn, cau mày:
- Thì ở ngoài xa
kia chớ đâu, ngoài Bắc ngoài Huế gì đó
Nó chống tay xuống bàn nói thật nhỏ:
- Tụi bay hổng thấy
sao, chín mười ngày nay máy bay ra vô đầy trời, mà xe lửa thì...lạ...
Mấy đứa kia chụm đầu lại im thít.
-...Hổm nay thiệt lâu mình chẳng thấy hình dạng đâu cả,
phải không? Chắc gãy đường rồi, xe chạy không được.
Mấy cái mồm cùng “À” lên một tiếng.
- Hèn gì- thằng
Giác nói- hổm nay mình hổng nghe tàu lửa hú lần nào
Đoàn tàu bay qua đã xa, tiếng ầm ầm vẫn còn nghe rõ. Kiên
nâng sách lên đọc tiếp một câu chính tả.
....Buổi học trôi qua bình thường. Lũ học trò ra về, xô lấn
nhau, giành nhau đi trước. Kiên ôm chồng sách lên nhà trên. Bé Tình nằm không cựa
quậy, mắt nó nhắm, duy có hơi thở thật mạnh, dồn dập. Mẹ Kiên vẫn ngồi, tay bó
gối nhìn đứa con, thấy mình bất lực. Dễ chừng từ sáng tới giờ - không, từ hôm
qua – bà đã ngồi mãi như thế. Kiên thấy thương mẹ như thương thằng em mang cái
định mạng khốn khổ. Kiên ra giếng rửa mặt. Mợ Tần ngoài ngõ đi vào, tay nắm một
nhánh cây nhỏ, chắc để dọa những con chó có tính thích dọa những chị đàn bà đi
vào nhà lạ mà cầm những cành cây nhỏ, như mợ Tần.
- Có chó không mậy?
Mợ Tần hỏi lớn.
- Dạ có!
Mợ đứng khựng lại, ngó xung quanh rất nhanh. Kiên cười
xòa:
- Nhưng nó chạy đi
chơi đâu mất rồi.
Mợ Tần mừng rỡ đi vô:
- Thằng làm tao hết
hồn.
Mợ bước lên thềm:
- Chị Ba!
Tiếng mẹ Kiên hỏi:
- Cái gì. Ai đó?
Mợ Tần cẩn thận dựng cái roi tựa vào tường trước thềm:
- Dạ tôi. Cháu bớt
chút nào không chị?
Mẹ Kiên đáp nhỏ, Kiên không nghe thấy, nhưng đoán được:
- Chẳng bớt chút
nào mợ ơi, mà nó còn...có mòi nặng thêm.
Rồi có lẽ bà thút thít. Mợ Tần tới sờ trán thằng nhỏ, ngó
sững nó và lát sau bước tới ngồi cạnh mẹ Kiên:
- Ừ, cháu thở nặng
hơi quá, tôi sợ...
Mợ không nói nữa nhưng mẹ Kiên cũng biết được những tiếng
tiếp theo:...”tôi sợ nó không sống nổi!”
Hai người đàn bà đứng dậy bước xuống giường và ngồi bệt
dưới nền, đặt khay trầu ở giữa. Không nói gì, mợ Tần bỏ miếng trầu vô miệng,
nhai nghe sào sạo. Mẹ Kiên dí viên thuốc lá vào sát hai hàm răng và chà mạnh qua
lại.
Kiên xối thêm một gàu nước nữa lên đầu, mát lạnh da thịt.
Vuốt tóc ra sau. Kiên chạy vào nhà. Mợ Tần hỏi:
- Con Nhẫn đâu?
Kiên đáp thay mẹ:
- Dạ nó đi chợ.
- Chưa về à? sao
tao không gặp?
- Dạ nó bán chuối,
làm gạo và vô tận chợ lớn mua cá nữa nên về trễ.
Mợ Tần cười:
- Một công hai ba
chuyện, con nhỏ giỏi chớ!
Mẹ Kiên vẫn còn còn đánh răng thuốc. Mợ Tần với lấy ống
thiếc nhổ đánh phẹt một búng nước trầu.
Nhẫn gánh gánh gạo nặng bước lên và đặt mạnh trước thềm.
Kiên thấy trước:
- Con Nhẫn về.
Mợ Tần chồm lên ngó ra. Nhẫn vứt nón xuống thềm, bỏ cây
đòn gánh ngang qua thúng gạo, vuốt lại mấy sợi tóc rồi đi vô, lại giường cúi xuống
nghe hơi thở của Tình, xong nó bước ra:
- Ồ ghê quá...
Kiên hỏi:
- Cái gì Nhẫn?
Nhẫn nhìn mẹ, nhìn mợ Tần:
- Anh Lài chết rồi.
Mợ Tần giật nhỏm mình:
- Thằng Lài chết hả,
Lài con chị Phó phải không?
- Dạ, anh Lài con
thím Phó, ảnh đi lính. Nghe như ảnh chết đã hai ba ngày rồi, bị trúng đạn đầy
mình. Người ta liệm xong chở về. Thím Phó khóc quá trời. Người ta giở hòm ra cho thím thấy mặt con lần chót.
Nó nói tiếp, mau mắn:
- Chị Bông cũng có
tới. Chị ôm hòm khóc ồ ồ. Người ta coi bà con thăm đông nghẹt.
Mợ Tần chặc lưỡi:
- Thiệt ngán. Ông
Canh chưa được chôn đã tới thằng Lài.
Con Bông chưa được cưới đã thành góa.
Kiên ngẩn ngơ, tay nắm cứng cái lược quên cả chải.
- Kiên, mầy thấy
không?...
Mợ Tần bỗng gọi to, Kiên giật mình:
- Dạ, cái gì mợ?
Mợ Tần đứng dậy tới chống tay vào cạnh bàn, nhìn mẹ Kiên,
quan trọng:
- Tôi nói thiệt mà
, làng này đã có cái lệ dễ sợ...lúc nào cũng chết một lượt hai người, không
cùng ngày thì cũng chỉ cách nhau một hai bữa. Lần này thì quả cùng ngày.
Mợ nuốt nước miếng đánh trót:
- Bọn thằng Bút,
thằng Hưng để ý chuyện này trước hơn ai hết, tôi nghe thấy tụi nó nói và ngẫm lại
thì trúng thiệt. Hồi mai tôi đã nói rồi mà, có thằng Kiên đây nghe, nay ông
Canh chết thì không lâu sẽ có một người chết theo, trúng quá. Làng này đã có
cái lệ...
Mợ nói luôn một
hơi, như thích thú trước cái khám phá mới mẻ của mình. Mẹ Kiên ngồi nghe
im lặng. Nhẫn kéo vạt áo lau mồ hôi trán:
- Gớm quá hé!
Nó đi ra bưng chồng hai thúng gạo lên nhau, đem đôi gióng
đi cất. Mợ Tần đã đi lại ngồi xuống đối diện với mẹ Kiên như lúc nẫy. Đột nhiên
như nhớ ra điều gì hay lắm, mợ vỗ cẳng mẹ Kiên một cái mạnh:
- Này, chị Ba!
Mẹ Kiên thót mình:
- Hả?
- Khỏe rồi đó...Chị
chẳng khỏi sợ rồi...
Không đợi mẹ Kiên hỏi, mợ tiếp:
- Thằng Lài nó thế
cho thằng nhỏ Tình đây rồi đó. Đã đủ cặp, đúng lệ rồi, thằng Tình chắc mạnh.
- À...
Mẹ Kiên “á...á” trong miệng, vì thật ra bà không được tin
tưởng lắm:
- Được vậy thì sướng
quá.
- Ừ, chắc rồi, nó
không chết đâu, mai chiều nó sẽ mạnh, thằng Lài thế cho nó.
Bỗng thấy Tình động đậy, hai người đàn bà nghe tiếng khè
khè phát ra thật to, từ cổ họng thằng bé, tay nó quơ mạnh lên. Mẹ Kiên đứng bật
dậy. Mợ Tần đứng dậy theo...Thằng bé uốn mình, mắt nó trợn trừng, tiếng khè khè
lớn hẳn, Mẹ Kiên ngồi bạch xuống giường và đột ngột khóc rống lên. Kiên chạy
vô. Nhẫn ở nhà sau chạy lên.
- Em chết rồi con
ơi! Kiên ơi! Nhẫn ơi!...
Bà mẹ ẵm xốc thằng bé dậy, nhưng nó đã xuội lơ.
- Trời!
Mợ Tần kêu lên và đứng ngay ra nhìn.
Kiên đưa tay quẹt nước mắt. Nhẫn ngồi bệt xuống khóc.
- Em chết rồi con
ơi! Kiên ơ...ơi!
LÊ
VĂN THIỆN
ĐÔI DÒNG VỀ LÊ VĂN THIỆN:
Sinh
năm 1947 tại Vạn Giã, Khánh Hòa
Truyện
ngắn đầu tay Ngoại Lệ đăng trên Văn số 47, ngày 1.12.1965 ký tên Văn Lệ Thiên.
Sau
đó có truyện đăng thường xuyên trên Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức, Khởi
Hành...
Hiện
sống và làm ruộng tại quê nhà ở Vạn Giã, Khánh Hoà
Nguồn:
VĂN CHƯƠNG VIỆT
1 1 7