Mưa nắng trời xuân
Cha tôi
kể chuyện hồi những năm đầu thập niên 30 của thế kỉ trước song thân tôi “lưu
lạc” vào Nam Kỳ. Sáu bảy năm trời xa quê, nhìn “thiên hạ” đón xuân ông cảm khái
ngâm rằng:
Xuân mãn
nam thiên phong thủy cựu
Nhơn tồn
khách địa tuế thời tân
Hồi đó
Tây chia nước ta thành ba kỳ, ba chế độ cai trị khác nhau. Dân Trung Kỳ vào Nam
Kỳ coi đây là đất khách. Xuân về tết đến… đem lại thời gian mới nhưng người vẫn
còn nơi đất khách nhớ về quê cũ. (Tương tự, Nguyễn Bính từ Bắc Kỳ vào đến Huế
đã làm thơ rằng Chén rượu ly
hương, trời, đắng lắm, rồi trong Hành phương nam cũng từng cảm khái với Đêm mưa đất khách). Thế nhưng,
nghiệm trong câu trước thì dẫu phương nam hiện tại (lúc ấy) có là đất khách,
cha tôi vẫn hiểu mình đang sống dưới trời nam, không riêng cho một kỳ nào. Khắp
cả trời nam mọi người cùng đón xuân với phong tục tập quán tự ngàn xưa. Vậy là
cha tôi không cô đơn nơi khách
địa, ông đã bắt gặp cả phong
thủy cựu bàng bạc khắp nơi
giữa buổi tuế thời tân,
bởi vì xuân mãn nam thiên,
bởi vì mùa xuân không bao giờ lỗi hẹn.
Rồi khi
tôi vừa chào đời song thân tôi trở về quê cũ. Tôi đã sống những ngày thơ ấu
trong không khí vùng cao nguyên mùa dông lạnh buốt gió bấc mưa dầm. Dần dần mưa
tạnh, run run chút nắng mong manh, lớp đất đóng rong trên mặt sân bóc lên những
miếng bằng miệng chén, vỡ ra giòn vụn dưới bàn chân cho tôi sự thích thú nhẹ
nhàng. Vài ba buổi chiều rồi năm bảy buổi chiều. Cái nắng như người bệnh yếu ớt
ẻo lả ấy dần dần bình phục, mỗi hôm đậm thêm một chút, dần dần không biết tự
lúc nào vẻ chói chang rực rỡ hiện rõ, trong màu sắc còn có hương thơm và hình
như có cả vị ngọt. Chúng tôi ngớ ra y như con thú rừng ngẩng đầu vươn cao tầm
nhìn để đánh hơi trong gió và thấy được: tết sắp tới rồi. Tuổi nhỏ chúng tôi
chỉ biết có tết, sau này lớn lên, hồi tưởng mới nói: mùa xuân đang đến.
Tháng
chạp hết mưa, buổi sáng đầy sương là báo hiệu buổi trưa nắng tốt mà giữa khuya
càng thấm lạnh. Đến cuối tháng chạp thì nắng đẹp lắm, màu vàng tươi rói. Thế mà
sang tháng giêng thì cái nắng ấy biến đâu mất. Nắng tháng giêng đã nghiêng sang
màu hồng, hơi nặng, không vàng, không nhẹ như nắng tháng chạp. Và tháng giêng
trời lại chuyển mùa, hay có những cơn mưa: mưa xuân.
Có thể
nói thời tiết từ đông sang xuân thật rắc rối:
Cơ mầu
tạo hóa bốn mùa vần
Đông:
cuối ba mươi – mồng một: xuân
(Thơ Hồng
Đức quốc âm)
Nhiều lần
chiều hăm chín chiều ba mươi vẫn là nắng vàng tháng chạp, nhưng giữa khuya hoặc
mờ sáng rắc xuống cơn mưa. Đôi lúc là cơn mưa khá lớn, nhưng mưa không lâu.
Thông thường mưa nhỏ lay bay, mưa phùn lất phất. Đọc thơ Trung Hoa thấy ông thi
sĩ Mạnh Hạo Nhiên nhàn nhã đến mức ngày xuân mà ngủ quên không biết trời trăng
mây nước gì, đến khi nghe tiếng chim kêu rộn ràng thức dậy tự hỏi: Đêm qua trời
mưa gió hoa rụng ít nhiều?
Dạ lai
phong vũ thanh
Hoa lạc
tri đa thiểu?
(Xuân
hiểu)
Khi chúng
tôi trưởng thành mà chưa phải nhận trách nhiệm gia đình thì ngày tết cũng thật
thoải mái, tưởng như đất trời trong gang tấc để vẽ vời cái gọi là giấc mộng
sông hồ. Tết là dịp để rộng bước giao lưu, đi chơi đây đó. Thanh niên Miền
Trung năm mươi năm trước phần đông hiền khô như cục đất, bước đầu tập uống
la-ve, đọc cổ văn cố bắt chước theo cái buồn của người xưa nhưng chẳng thấy đâu
mối sầu vạn cổ mà càng có điều vui để nói với nhau, nhìn bạn gái qua lăng kính
Tự lực văn đoàn, thấy người nào cũng đẹp, cũng thánh thiện. Mưa xuân làm đôi má
bạn trắng hơn, nắng xuân làm má bạn hồng hơn. Tết được đồng hóa với mùa xuân và
mùa xuân đồng hóa với tuổi xuân, cho nên khi tết không chịu nán lâu hơn thời ta
còn niên thiếu, Kiều Thệ Thủy viết:
Ai đem
tâm sự mà thương nhớ
Cồn tóc
mây xa ở cuối trời
Bạn cũ
sông hồ năm bảy đứa
Biết còn
trinh bạch những đôi môi?
Đời tôi
trải nhiều buổi nguyên đán nắng hồng hơn những buổi nguyên đán mưa nhạt. Nhưng
những buổi nguyên đán mưa nhạt còn đọng lại trong ký ức lâu hơn. Năm ấy tôi về
ăn tết tại nhà bà cô ở làng Bình Chánh trong vùng châu thổ sông Cái Tuy An,
sáng mồng một theo ông dượng lên chùa Đá Trắng. Đá Trắng là tên nôm, tên chính
thức của chùa là A Lan Nhã sắc tứ Từ Quang tự. Trời mưa bụi lay bay, thoáng
nhìn ta không biết ướt, nhưng vuốt tay lên đâu thì thấy nước ở đó. Tâm hồn tôi
như lâng lâng khi dạo trong vườn tháp rêu phong, cứ nghĩ hoài đây là nơi gắn bó
với những việc quan trọng của gia tộc. Trong cuộc khởi nghĩa Cần vương tại Phú
Yên năm 1885 do Lê Thành Phương lãnh đạo, ông nội tôi lúc ấy hăm sáu tuổi là
Quân thứ từ hàn, lo về văn thư bút lục, thường lãnh nhiệm vụ ra chùa Đá Trắng
làm một khách vãn cảnh để gặp gỡ liên hệ với các bạn đồng tâm trong văn thân
tỉnh Bình Định. Một buổi trưa nắng gắt tại dốc Đá Trắng ông đã gặp người phụ nữ
gánh nước độ đường. Người phụ nữ ấy sau là bà nội tôi. Cuộc khởi nghĩa thất
bại, ông nội tôi đưa bà lên Vân Hòa trú ẩn, về già lui xuống Phong Thái, căn
dặn con cháu khi ông lâm chung chôn sâu trong hang đá. Cha tôi thì an táng ở Tuy
Hòa. Thành ra cả họ Trần nhà chúng tôi chỉ có hai người dâu là bà nội tôi và mẹ
tôi ngàn năm yên nghỉ tại Vân Hòa. Bởi lẽ ấy tôi dành trọn tình cảm sâu nặng
cho làng quê.
Có một
nguyên đán từ huyện lị tôi khăn gói lên đường làm chuyến đi xa. Đi xa là nói theo
chữ nghĩa cho vui và nói theo giao thông cách trở thời tôi hai mươi tuổi chứ ba
bốn trăm cây số thì giờ đây có xa gì. Từ quán trọ nhìn ra con đường vừa tu bổ,
những hàng dương mới trồng xanh nhạt dưới màn mưa nhỏ. Chưa biết nhiệm sở sắp
đến thế nào, bằng hữu sẽ gặp ra sao, tưởng tượng cũng có phần thích thú nhưng
không khỏi phảng phất bâng khuâng xa cách cố nhân, sẽ không còn những lần lang
thang từ phố huyện ra nhịp cầu xưa đến chân đồi Lá đôi mắt bạn nhìn xa xôi tận
điểm cuối cùng.
Tôi mạn
phép sửa một chữ trong thơ Vương Duy:
Huyện
thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá
thanh thanh liễu sắc tân
Và thoát
dịch theo ý mình: Mưa mai rắc
bụi huyện thành. Hàng dương quán
trọ xanh xanh nhạt nhòa.
Tháng
giêng bao gồm hai tiết lập xuân và vũ thủy. Từ lập xuân đến vũ thủy mưa xuân
chỉ rơi rắc như bụi nhẹ. Mưa vũ thủy mới đáng mặt là mưa, mưa cho cây cối núi
rừng, hoa đồng cỏ nội, ruộng đồng đất thổ, cho lúa bắp sắn khoai, mưa
thật lớn, ào ào tuôn đổ, ép dẽ mái tranh, băng bờ tạo trổ, thật tươi trẻ, mạnh
mẽ, dứt khoát từng cơn rồi tạnh ráo, tầng cao trở lại trong xanh, nõn nà mây
trắng, mưa không dai dẳng lê thê, trời không âm u trì trệ. Nếu coi những
cơn mưa bụi buổi nguyên đán khai xuân là mưa sơ sinh, mưa thơ ấu, thì mưa trong
tiết vũ thủy là mưa tuổi hai mươi, bước vào giai đoạn trưởng thành, tràn trề
mộng ước. Tiết vũ thủy năm ấy cha tôi làm thơ nôm vịnh cảnh ruộng đồng, có
những câu:
Lúa nứt
ngạnh trê thêm bộn gié
Đỗ ra trái đỉa lại nhiều hoa
Con
chàng bắp nọ không lo háp
Mấy
đám khoai kia chẳng sợ hà…
Thi sĩ Mạnh Hạo Nhiên mới ngày nào đó nhàn hạ vô tư, sau
giấc ngủ mùa xuân trễ tràng nghe tiếng chim kêu nghĩ chuyện hoa rụng ít nhiều
thì tới lúc nào đó cuối năm trở về Nam Sơn không khỏi chạnh lòng thấy tóc bạc
giục tuổi, mỗi năm một già, ngày xuân đưa năm cũ trôi đi hết:
Bạch phát thôi niên lão
Thanh dương bức tuế trừ…
Câu thơ ấy đang ứng với thế hệ chúng tôi. Có thể nhìn
xuôi chiều thời gian từ ấu thời đến lão niên, cũng có thể nhìn ngược lại để
điểm dừng ở tuổi ấu thời. Ba bữa tết, bảy ngày xuân, nắng mưa, mưa nắng… trong
mỗi đời người đâu phải ít lần trải qua, cứ đến chu kỳ quay lại đúng hẹn, luôn
luôn bao trùm lên tất cả, sông núi cỏ cây hoa lá và quan trọng hơn hết là trong
lòng người. Cũng con đường ấy sáng mồng một mới hơn chiều ba mươi, cũng con
người ấy hôm nay chỉnh tề mực thước hơn hôm qua. Cái mới của mùa xuân khiến cho
mỗi tâm hồn trẻ trung vì biết phân định quá khứ đồng thời dự phóng tương lai.
Cho nên khi một cành mai phương nam, một cành đào đất bắc
hay một khóm hoa núi, một tiếng chim rừng chợt báo tin xuân, con người ở chặng
nào của cuộc đời đều sẵn sàng dọn lòng chuẩn bị hoan nghênh. Dù vui hay buồn,
mưa hay nắng, ai ai cũng trải mở phong
thủy cựu để đón tiếp tuế thời tân.
Cuối năm đi vẽ Panô
Năm tôi học lớp nhì bậc tiểu học, thường được thầy sai
trang trí trường lớp, bạn bè gọi tôi là họa sĩ. Một lần có việc gì đó, thầy
Hiệu trưởng vui miệng bảo: Gọi họa sĩ lại đây. Thế là, chuyện bạn bè bầu chọn
coi như nay được thầy phê duyệt, tấn phong. Thuở ấy mọi người đối với
nhau hồn nhiên quá, không ai thắc mắc gì, bởi họ biết rằng nếu gọi tôi là họa
trời đi nữa cũng không làm chết thằng Tây thằng Mỹ nào cả, không làm sứt mẻ
chút nào danh tiếng các đại gia Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ vân vân.
Sau này (lúc tôi về già) có mấy bạn trẻ cũng do vui miệng gọi là nhà văn, đã
làm mất lòng vài vị hội viên hội nhà văn tại tỉnh, họ nói: “Ông ấy có phải hội
viên Hội nhà văn đâu mà gọi là nhà văn?” Mô Phật! Các bạn trẻ ạ, đừng vui miệng
như vậy không hay, bây giờ danh phận rõ ràng, ngành nào cũng có nhiều bậc: hạng
nhân dân, ưu tú, đạt chuẩn là vốn quý, còn lại hạng tầm thường, xoàng xĩnh, yếu
kém… đâu có đánh đồng với nhau được!
Đến khi làm ông giáo làng, cảm thấy thì giờ rảnh rỗi
không làm gì cho hết, cờ bạc chẳng biết, bia mới uống nửa ly đã nghe nồng nàn
từ mũi lên đầu, nên tôi làm thơ và viết truyện ngắn chơi chơi. Cứ ngỡ văn
chương đãi kẻ khù khờ, tưởng đâu chữ nghĩa lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng bước
vào vòng mới biết đặt câu, hiệp vần không phải bở, không có được bài văn bài
thơ nào cho ra hồn đáng mặt để đời, tôi chợt nghĩ vẽ vời chắc đỡ mệt trí hơn,
bèn ghi tên lớp hội họa hàm thụ trường Mỹ thuật Đông Phương của họa sĩ Vương
Quốc Đạt. Lúc cặm cụi bôi bôi xóa xóa, đỏ đỏ xanh xanh, tá hỏa ra rằng vẽ vời
cũng như viết lách, với thiên hạ thì dễ nhưng với ta khó lắm, cái hàm họa sĩ
chẳng qua chỉ do lũ bạn nhóc tì bốc phét cho ta đi tàu bay giấy, cũng như cái
hàm nhà văn nhà thơ chẳng qua là các anh em trẻ thấy thương hại, muốn ta đỡ tủi
phận già!
Trời xui đất khiến… lúc tôi được cho nghỉ việc để về
địa phương lao động sản xuất, đang ngơ ngác không biết lao động thế nào, sản
xuất thứ gì thì có hai bạn họa sĩ Ngọc Bửu và Huỳnh Thu cho theo vẽ panô. Những
dịp cuối năm, cần đổi mới khuôn mặt nông thôn các hợp tác xã cho vẽ lại những
panô tranh cổ động xây theo các ngả đường quê, hai anh có việc làm, rủ tôi.
Thật ra tôi được đi theo không phải vì cái tài vẽ vời sớm phát tiết từ bậc tiểu
học và được cơ bản hoàn tất bằng những bài giảng quay ronéo của họa sĩ Vương
Quốc Đạt, mà vì hai bạn ấy thấy tội nghiệp quá, muốn cứu gia đình tôi khỏi đói.
Tôi được giao công việc ai cũng làm được là chỗ nào hai anh bảo sơn xanh thì
tôi sơn xanh, chỗ nào bảo sơn đỏ thì sơn đỏ, tranh cổ động từng mảng màu lớn,
tôi cầm cây cọ lớn, tha hồ vùng vẫy dọc ngang.
Tôi có biết họa sĩ tài tử LoKa. Tôi nói tài tử
vì ông vẽ hoàn toàn theo ý thích tùy hứng, có thể nửa chừng bỏ đó, đi đâu mất
tiêu biền biệt, một vài tháng sau trở lại vẽ tiếp, cũng có thể bỏ luôn. Ông
không bận tâm tới nhuận bút, thù lao. Một lần ngồi uống rượu với ông ở quán cà
phê Thảo, nếp quán xộc xệch bụi đời, ông kể chuyện tình cảm của mình và đọc bài
thơ dài, tôi nhớ hai câu mang những màu sắc:
Ngày xưa anh vẽ màu nâu
Màu vàng em giữ để sầu riêng anh…
Ông đi vẽ nhiều nơi, ở thôn quê người ta đồng hóa tên
LoKa của ông với từ họa sĩ, gọi các họa sĩ là “lô ca”. Nhớ một hôm, thấy chúng
tôi vừa bày ra nào sơn nào cọ, lũ trẻ reo lên, gọi nhau: Có tới ba lô ca tụi
bay ơi! Suốt buổi chúng xúm xít xem vẽ, gọi tôi là “lô ca thấp”, Huỳnh Thu là
“lô ca ốm” và Ngọc Bửu là “lô ca già”. Chúng thật ngạc nhiên thấy Ngọc Bửu cầm
cọ tay trái, lại gọi nhau như báo tin vui: Tụi bay ơi, ra coi lô ca già vẽ tay
trái! Người kế thừa họa sĩ LoKa nay mở phòng vẽ ở đường Trần Hưng Đạo có thể
không biết họa danh LoKa đã đi vào lòng nhiều người như thế.
Những tranh cổ động cho vùng nông thôn thường vẽ một
thanh niên vác cuốc, một phụ nữ cầm liềm ôm bó lúa, hậu cảnh là đồng ruộng và
xa xa là núi non. Vẽ panô bên đường khác nào đóng cày giữa đường, luôn luôn có
người đứng lại coi và phê bình, nhận xét theo chủ quan, còn quá bộ vào chuyên
môn, hỏi sao không thêm vào chỗ này chỗ nọ, lại nói đến những nhân vật trong
tranh: sao ngực to quá vậy, sao mông lớn quá vậy?
Một ông trung niên bảo chúng tôi:
- Sao các ông không vẽ chúng tôi có xe hơi nhà lầu, ít
nhứt cũng là xế nổ rồ ga, lúc nào cũng bắt chúng tôi vác cuốc cầm liềm đội mưa
dang nắng đứng ngoài đồng?
Không phải ông ta không có lý, chúng tôi chỉ vẽ theo
mẫu có sẵn.
Một ông xem bức tranh “công nông binh trí đoàn kết”
hỏi:
- Người mang kính cận, ôm quyển sách là thành phần gì?
Đáp:
- Trí thức.
Ông ta nói:
- Trí thức là người hiểu biết, phải đứng hàng đầu,
phải xông lên trước để hướng dẫn bà con chớ sao lại rụt rè núp núp lén lén đằng
sau?
Một lần tôi đến giao bảng hiệu cho Hợp tác xã mua bán
phường… Tiền trao bảng nhận xong, tôi ra về thì ông Phó chủ nhiệm gọi theo:
“Này, ông thợ, ông thợ… phải treo bảng lên chớ”. Tôi quay lại, nhưng không
treo, treo có tiền treo, nếu muốn phải trả thêm. Ông Phó chủ nhiệm đành thôi
vậy. Tôi bước đi thì nghe tiếng một cô nhân viên nói với ông Phó: “Chú ơi! Ông
đó là ông thầy, không phải ông thợ, chẳng qua do thời thế mà…”. Tôi nghĩ: Cô bé
thật vẽ chuyện. Sao lại bận tâm chuyện thầy/thợ. Chỉ sợ tôi không làm nổi “ông
thợ” mà thôi.
Việc vẽ panô của tôi, đúng ra là việc sơn phết xanh
xanh đỏ đỏ theo chỉ dẫn của hai họa sĩ chuyên nghiệp cũng giúp gia đình tôi đỡ
ngặt. Những ngày cuối tháng chạp sớm đi tối về, trưa nghỉ lại tại chỗ, ăn mì
tôm. Có khi một ngày vẽ hai ba nơi, xong chỗ này chạy qua chỗ khác, trong cái
giỏ lác bự lỉnh kỉnh những sơn, những cọ, dầu lửa, giẻ lau. Bà con ở gần thường
ra xin tí sơn để làm dấu chén dĩa, bao đựng lúa gạo. Huỳnh Thu lúc nào cũng
mang theo xị rượu phòng nơi không quán xá thì cũng có nhâm nhi. Có năm sáng ba
mươi tháng chạp còn đi làm, chiều ba mươi Huỳnh Thu mới nhận được tiền công,
tối đem lên chia cho. Mừng lắm, khoản đó để dành sau tết mấy đứa con đi học,
đứa vô Sài Gòn, đứa ra Huế.
Sáng mồng một dậy sớm như gặp lại mùa xuân cũ sau một
năm xa cách, hình như năm nào tôi cũng đọc câu thơ của cha tôi: Xuân mãn nam
thiên phong thủy cựu… Ôi, những buổi nguyên đán trong suốt cuộc đời, dù mưa hay
nắng vẫn cảm thấy cuộc đời nhẹ tênh, cả tâm thân ta cũng nhẹ tênh tưởng có thể
chắp cánh bay lên cao.
Nay, Ngọc Bửu có tranh tham dự các cuộc triển lãm, ba
người con đều là họa sĩ, thật hạnh phúc vô cùng. Huỳnh Thu đã lâu buông cây cọ
sang một bên, luôn luôn tự xét mình, tuổi tác lên thì tửu lượng xuống, uống vài
ba chén giọng nói đã hơi khề khà lắp bắp. Anh vừa đến rủ tôi chạy một vòng
quanh vùng ven thành phố. Đồng lúa đang xanh, đường bê tông thẳng rộng, thấy ít
panô và ít những bức tranh vẽ người nông dân vác cuốc cầm liềm đứng dầm mưa dãi
nắng. Chắc nay họ đã có nhà lầu hai ba tầng và ít nhất cũng có xế nổ phân khối
lớn đi về ngang dọc? Mong được vậy thay!
Trần
Huiền Ân
9 6