Saturday, May 27, 2017

2887. Tưởng niệm nhà thơ Phạm Ngọc Lư (1946-2017) - Bài của bằng hữu: PHẠM CAO HOÀNG . PHAN NI TẤN . TÔ THẨM HUY . LÃM THÚY . NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM . MANG VIÊN LONG . NGUYỄN & BẠN HỮU . CÁI TRỌNG TY . NGUYỄN QUANG CHƠN . DUYÊN






Trong ảnh: Nhà thơ Phạm Ngọc Lư


1.
TRỞ VỀ PHÁ TAM GIANG

Phá Tam Giang phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Trời vẫn xanh màu xanh cố cựu
Mây trầm ngâm khói nước miên man

Mười năm dong ruổi mòn đất khách
Về cố hương chiều xế nắng tàn
Bỏ nón, tháo giày, xăn tay áo
Rửa phong trần thẹn với Tam Giang

Kè đá rêu xưa ngâm bến cũ
Còn người đi người đợi đò ngang
Còn xóm chài lưa thưa mành lưới
Còn nhấp nhô thuyền thúng thuyền nan
Không còn người chèo đò năm xưa tóc bạc
Cô lái đò chiều nay trán nhăn
Trừng mắt nhìn ta trách móc :
“Mười mấy năm chú mới về làng !”

Mười mấy năm ? Phải rồi, ta quên mất !
Cái thuở áo cơm trở mặt phũ phàng
Điêu đứng năm Mùi ra đi năm Tuất
Ra đi mưu cầu y thực
Trở về nặng trĩu gian nan

Nhớ buổi ra đi thân tình đưa tiễn
Vợ xếp câu thơ chị gói khúc đàn
Đệ tử mươi người tung hô dâng rượu
Thôn nữ vài em gởi gắm gió trăng
Mẹ tóc trắng nhìn theo lặng lẽ
Con tóc xanh hai đứa dùng dằng
Ta mím môi, chỉ Tam Giang thề hẹn
Không là Tương Như mà khí khái dâng tràn
Bước xuồng thuyền nhìn trời cao dõng dạc
Gõ mạn thuyền ngâm khúc Hành phương Nam

Hành phương Nam, hành phương Nam !
Mười mấy năm tấm cám thau vàng
Thấp cao danh lợi
Chí khí dở dang
Tơi tả bao phen buồn thân thế
Đắng cay mấy bận khiếp hồng nhan
Mưa miền Nam, nắng miền Nam
Trông mây thấp thỏm, nghe gió bàng hoàng
Mười mấy mùa trôi qua không nhớ
Quá đỗi mưa đau
Quá nhiều nắng khổ
Lẽ nào Trời bỏ ta chăng ?
Đọc thơ Nguyễn Bính chua tâm sự
Đọc lại thơ mình thẹn gió trăng
Chén rượu quê người sao mà bạc
Ân tình đất khách lắm đa đoan

Chiều nay về… bên phá Tam Giang
Phía bờ Đông vẫn xóm vẫn làng
Mười mấy năm còn ai trông ngóng
Mười mấy năm mỏi mòn ước vọng
Mẹ có thương con gió bụi lầm than ?
Chị có xót em một đời thất chí ?
Em không buồn ta ?
Sao lòng ta phai nhạt đá vàng !

Phá Tam Giang, ôi phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Nước vẫn mặn mòi mây quen thuộc
Sao lòng ta sóng gió ly tan
Xin xấu hổ với lời thề ngày trước
“Không công danh bất phục hoàn !”
Xin biết ơn cô lái đò nhân hậu
Còn thương ta mời ta quá giang
Thôi rửa hết phong trần nơi bến nước
Để trở về đứng khóc dưới hương quan !



  

Năm 1970 tôi được thuyên chuyển về dạy học ở Tuy Hòa. Đây là khoảng thời gian tôi có dịp rong chơi với Phạm Ngọc Lư. Phạm Ngọc Lư quê ở Huế, sau khi tốt nghiệp sư Phạm Qui Nhơn vào năm 1967 anh được phân công về dạy ở Tuy Hòa. Anh thuê chỗ trọ ở đường Nguyễn Huệ và ăn cơm tháng ở tiệm ăn Mỵ Châu Thành.  Chỗ anh ở trọ chỉ cách nhà tôi một con đường, chiều nào anh cũng ghé nhà tôi chơi, thân đến mức như người trong nhà.  Vì lý do nào đó mà năm ba hôm không thấy anh đến là cha tôi lại hỏi: “Mấy bữa nay sao không thấy Lư ghé chơi?” Sau năm 1975, gia đình tôi tan tác, anh em mỗi người một phương, sau này gặp lại nhau bên Mỹ, mỗi khi nhắc lại bạn bè cũ ở Tuy Hòa, các anh của tôi vẫn nhắc đến Lư. Lư hiền lành, ít nói, và hơi bất cần đời. Anh có biệt tài thổi sáo và rất giỏi chữ Hán vì trước khi vào sư phạm anh học ở Viện Hán Học Huế. Truyện và thơ của anh đều hay, với lối viết sắc sảo, cô đọng và chặt chẽ; đặc biệt trước 1975 truyện của anh xuất hiện đều đặn trên tạp chí Văn ở Sài Gòn – điều mà các cây bút trẻ dạo ấy không dễ gì có được. Cũng như Y Uyên, Bùi Đăng, Mang Viên Long, anh có thời gian dạy học ở vùng nông thôn  Phú Yên, trực tiếp chứng kiến những cảnh tượng hãi hùng của chiến tranh. Anh luôn ưu tư về tinh hình đất nước và phần lớn các sáng tác của anh đều có nội dung tố cáo và lên án tội ác của chiến tranh.  Tôi chính thức tham gia vào sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Tuy Hòa từ năm 1970 đến 1972, trong khoảng thời gian đó ngoài Phạm Ngọc Lư tôi thường gặp các anh Trần Huiền Ân, Đỗ Chu Thăng, Mang Viên Long và điều trùng hợp ngẫu nhiên là tất cả đều là giáo chức. Sau năm 1975, vì nhiều lý do khác nhau tất cả đều không còn làm nghề dạy học. Mỗi khi nghĩ đến chuyện các anh không còn đi dạy tôi không khỏi chạnh lòng vì tôi biết rõ các anh rất yêu nghề dạy học. Các anh rơi vào cảnh lỡ thợ lỡ thầy. Trần Huiền Ân chuyển qua làm nghề vẽ pa-nô và bảng hiệu, Đỗ Chu Thăng về quê ở Hòa Mỹ làm ruộng, Mang Viên Long về quê ở Bình Định làm nghề sửa ổ khóa, còn Phạm Ngọc Lư lưu lạc vào Long Khánh, ngồi ờ ngoài chợ bán dừa, bắt đầu đoạn đời lận đận lao đao từ đó. Khi tạp chí Thư Quán Bản Thảo do Trần Hoài Thư và Phạm văn Nhàn chủ trương ra đời, Phạm Ngọc Lư viết khá đều vả gửi bài cộng tác – chủ yếu là thơ, những bài thơ rất buồn, nhưng chỉ một thời gian sau thì anh tuyên bố ngừng viết. Một số email anh gửi tôi cách đây 5 năm cho thấy anh đang trải qua những ngày tháng vô cùng khó khăn, không còn tha thiết gì đến văn chương, nhưng không nói rõ khó khăn gì mà tôi thì không tiện hỏi. Trên các diễn đàn văn học, bài vở cộng tác của anh thưa thớt dần rồi không thấy nữa. Chiều nay tin từ gia đình và bạn bè ngoài Đà Nẵng cho biết sau hơn một năm chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, anh đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 7 giờ kém 5 tối thứ sáu, 26.5.2017, tại Đà Nẵng. Một đời tài hoa rồi cũng đến lúc phải dừng lại. Cầu mong linh hồn người bạn thơ sớm yên nghĩ nơi cõi vĩnh hằng.

Phạm Cao Hoàng
Virginia, 26.5.2017
(Bài đã đăng trên Thư Quán Bản Thảo số số 70 chủ đề Phạm Ngọc Lư tháng 6.2016.
Sửa chữa bổ sung ngày Phạm Ngọc Lư qua đời 26.5.2017)




                                   
nhớ Phạm Ngọc Lư

Không biết Huế xưa trời mưa hay nắng
Riêng ở bên này mưa mấy bữa nay
Mưa làm ướt tôi thấm đôi tà Huế
Để tiếng bạn buồn lọt giữa kẽ tay

Chiếc lá không bay sáng nay lá khóc
Sướt mướt trên cành mọc lá tháng Năm
Tuổi lá tháng Năm ướt dầm mây nổi *
Khóc một bài thơ vừa tắt thở nằm

Nhìn chiếc lá rơi trời ơi nhớ bạn
Nhớ bạn tay cầm cơn bệnh bẻ đôi
Thả xuống sông Hương cùng đường nước chảy
Mà thương giữa trời bóng vợ mồ côi

Tôi nhớ bạn ngồi chờ thơ thức dậy
Ngoài biên cương về cõng bạn đi chơi
Bạn cõng tập thơ đi thăm hệ lụy
Chưa hết xuân phôi đã vội qua đời

Muốn kể bạn nghe nắng xanh xứ lạ
Nó hay lăn tăn lăn xuống tóc người
Nó thích lon ton bon theo câu hát
Gánh chút nồng nàn về Huế quê chơi

Muốn kể bạn nghe giọt mưa xứ lạ
Nó hay len trong hốc mắt của trời
Con mắt nhớ quê con mắt thút thít
Khóc lả giọng người cười mấy lăm hơi

Nhưng đã thôi rồi niềm chưa hết nỗi
Bạn quá đau đời đành bỏ cuộc chơi
Tập thơ đan tâm* chở người xa phố
Để Huế mờ mưa ngồi khóc ngậm ngùi.

Phan Ni Tấn
Montréal, 29.5.2017 

(*) Mây Nổi, Đan Tâm: tưạ hai tập thơ Phạm Ngọc Lư





Cuối cùng rồi anh Phạm Ngọc Lư cũng đã ra đi.  Về đâu chẳng ai biết.  Chúng ta có khác nào đoàn lữ hành dài vô tận trên sa mạc, chẳng biết đến từ đâu, ghé vào túp lều trần gian này nghỉ chân trong chốc lát, rồi sẽ lại tiếp tục đời này sang đời khác lên đường đi về cõi trời vô định.  Phạm Ngọc Lư đã vĩnh viễn ra đi, nhưng những gì để lại từ tấm lòng son của anh sẽ giúp những lữ khách còn ở nơi quán trọ này mãi mãi có thể nô đùa, hạnh phúc bên nhau.
Tôi đã mong có dịp được ngồi cùng anh đàm đạo chuyện văn chương thi phú, ngồi kể chuyện nắng rụng, trăng tàn với Nguyễn Du, Đỗ Phủ: Ô hô thiên địa vô cùng, Uống say mà khóc Đặng Dung - Thuật Hoài (Thơ PNL).  Việc ấy nay đã là bất khả.  Thì xin rót một chén rượu, châm một điếu thuốc, ngậm ngùi cùng anh về thân phận lầm than của giống người.  Ngậm ngùi, nhưng không buồn bã.  Chúng ta đã có nhau.  Chép ra đây một bài tôi dịch đã lâu một đoạn trong vở kịch trường thi Atalanta in Calydoncủa Charles Swinburne, mà thương nhớ anh.

Tô Thẩm Huy,
Tiết Tiểu Mãn, Đinh Dậu, tháng 5, 2017.

Lần Tăm Về Tối

Quyền hoạ phúc, trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
 (CONK)

Thuở năm-tháng cựa mầm trong trứng-nước,
Lúc gọt mình, nặn tượng mống con người,
Lấy thời-gian trộn sống với khóc cười,
Đem buồn tủi nhào tươi cùng day-dẳng,
Gom hoa rụng những ngày bừng hạ nắng.
Gọi khổ-đau, men đắng ngậy hương đời,
Ập nhớ-nhung, đăng-đẳng chắt tự trời,
Vào cuồng-nộ, dậy sôi từ hoả-ngục.
Mượn một chút ruỗng-ruồng non sức-lực,
Một chút tình, thoáng-chực đã mong-manh,
Triệu màn đêm, bóng đổ của bình-minh,
Vời sự sống, bóng hình ven cái chết.
Trổi phù-phép, thần-linh xoè tay kết,
Lôi lệ:mưa, lửa: sét, gió: oan-hờn.
Vực ngày rơi, vốc nước giọt tuôn-tuồng.
Từ sau gót chân truồng hoe năm-tháng.
Lùa trên biển, bọt-bèo nhô sóng dạt,
Nhặt mảy-may, bụi cát ứa lao-lung,
Những vị lai, vô sắc, khuyết hình-dung,
Luồn cửa tử, bập-bùng lò chuyển-hoá.
Lận hồng-lệ, yêu-đương vào ác-trá,
Lúm môi cười, rựng má, đã hoen mi.
Úm thiên-la, vây bủa cõi về, đi,
Giằng địa-võng, vật ghì dương, âm thế.
Đem nung luyện, thành hạo-nhiên linh-khí,
Xát đoạn-trường cho vị sướt thớ gan,
Cho thiên-thu hiu-hắt đứng hiên-ngang,
Nhìn nắng rụng ngỡ-ngàng trên gang-tấc.
Hốt giông-gió, tung nồm, xô nén bấc,
Giới thần-linh úm chặt một làn hơi,
Thổi vào mồm hình-tượng gã con người,
Cấy nhưng-nhức nhựa đời đau roi-rói.
Bật môi mắt, vặn giây, căng tiếng nói,
Trút xanh hồn, sương khói lẫn tà-huy.
Máy chân tay, nắn bụng, khoắng nghĩ-suy,
Thân lao-lụng, lưng khuỳ, lòng hướm tội.
Gieo ánh-sáng để sợ, run bóng-tối,
Hắt ráng chiều, hòng dỗi giấc ngủ đêm.
Chuyên ái-tình, chút của để làm tin,
Chút cái đẹp, bên thềm ngong nhan-sắc.
Môi hé mở, lưỡi dần đau lửa cắt,
Lời vừa buông, chất-ngất đã đoạ-đầy.
Lằn trong tim, minh-muội mối cuồng say.
Hằn trên mắt, nhẵn ngày chung mệnh-số.
Dệt manh áo thằng hề, choàng xuống mộ,
Gieo suốt đời, phỏng bộ gặt được ư ?
Cuộc trăm năm: phiên gác bước âm u
Từ cõi mộng, mịt mù về cõi mị.

Nguyên Tác: 
Atalanta in Calydon, Chorus, Algernon Charles Swinburne.

Before the beginning of years
There came to the making of man
Time, with a gift of tears;
Grief, with a glass that ran;
Pleasure, with pain for leaven;
Summer, with flowers that fell;
Remembrance fallen from heaven,
And madness risen from hell;
Strength without hands to smite;
Love that endures for a breath:
Night, the shadow of light,
And life, the shadow of death.
And the high gods took in hand
Fire, and the falling of tears,
And a measure of sliding sand
From under the feet of the years;
And froth and drift of the sea;
And dust of the labouring earth;
And bodies of things to be
In the houses of death and of birth;
And wrought with weeping and laughter,
And fashioned with loathing and love,
With life before and after
And death beneath and above,
For a day and a night and a morrow,
That his strength might endure for a span
With travail and heavy sorrow,
The holy spirit of man.
From the winds of the north and the south
They gathered as unto strife;
They breathed upon his mouth,
They filled his body with life;
Eyesight and speech they wrought
For the veils of the soul therein,
A time for labour and thought,
A time to serve and to sin
They gave him light in his ways,
And love, and a space for delight,
And beauty and length of days,
And night, and sleep in the night.
His speech is a burning fire;
With his lips he travaileth;
In his heart is a blind desire,
In his eyes foreknowledge of death;
He weaves, and is clothed with derision;
Sows, and he shall not reap;
His life is a watch or a vision
Between a sleep and a sleep.






1.

VỀ THĂM PHẠM NGỌC LƯ

Ta về thăm Phạm Ngọc Lư
Thấy trong tao ngộ dường như bẽ bàng
Đường chiều mưa ướt lối sang
Tâm tư trĩu nặng như ngàn cân treo
Duyên Thơ , tình cũng ít nhiều
Xót lòng ngó dáng Anh tiều tụy sao!
Hồn không ai dập mà đau
Tâm nào có ai vùi đâu, nát nhừ!
Siết tay nhau , nói giã từ
Mà lòng thắt thẻo buồn như cuối cùng!
Trời mưa qua suối, qua rừng
Qua đèo qua dốc rưng rưng nỗi niềm
Chút gì ứ nghẹn trong tim
Nguyện cầu còn được gặp thêm đôi lần!
Khi về dạ cứ tần ngần
Lẽ nào đầu bạc thi nhân chẳng chờ?
       
Lãm Thúy
Đà Nẵng, 2016

Lãm Thúy viết bài thơ này khi từ Hoa Kỳ về Việt Nam cùng nhà thơ Viêm Tịnh vào Đà Nẵng thăm Phạm Ngọc Lư đang còn điều trị trong bệnh viện.


Lãm Thúy – Phạm Ngọc Lư – Viêm Tịnh – Chị Quý (vợ nhà thơ PNL)



2.
CŨNG ĐÀNH THIÊN CỔ
MỘT ĐỜI TÀI HOA

Ừ thôi người cũng ra đi
Tin không lạ mà buồn chi lạ lùng
Biết rồi cũng đến mệnh chung
Mà lòng vẫn cứ chờ mong phép mầu
Giờ thì hết ngóng tin nhau
Hết cầu nguyện, hết lo âu. Hết rồi!
Nghe tin lòng cứ rối bời
Buồn không cất nổi một lời phân ưu!
Phạm Ngọc Lư! Phạm Ngọc Lư!
Tài hoa chi cũng tan như bọt bèo
Một đời lận đận, gieo neo
Giờ như Mây Nổi bay chiều tóc tang
Mai về đò dọc hay ngang?
Có ai khỏa nước sông Hàn khóc nhau?
Nước nào lạnh, sông nào sâu?
Hỏi làm chi nữa thuyền đau bến bờ
Anh về Huế nắng hay mưa?
Còn ai đọc lại bài thơ tang bồng
Còn Đan Tâm một tấm lòng
Sắt son ngần ấy sao không giữ đời?
Sao buông tay bỏ cuộc rồi?
Sinh tồn đứt đoạn kiếp người mong manh
Đau lòng chưa Cố Lý Hành
Qua sông sóng giục lòng anh có buồn?
Một đời lưu lạc tha phương
Về nằm đất Mẹ cuối đường trầm luân
Có khi đất cũng reo mừng
Đón người về cuộc trùng phùng yên vui
Ngày mai ba tấc đất vùi
Cũng đành thiên cổ một đời tài hoa!
           
Lãm Thúy
Maryland, 30.5.2017




                         
Kính hương hồn nhà thơ Phạm Ngọc Lư


Anh đã ra đi rồi sao?
Mùa thu vẫn chưa trút lá
Bàn chân nào vội vã
Biên cương mù khói trận, thưở gieo neo

Anh đã ra đi rồi sao?
Miền thơ vẫn đầy thi vị
Tình thơ vẫn hoài tri kỷ
Sao nỡ bỏ cố  hương, nỡ bỏ bạn bè?

Biên cương hành.
Qua trăm suối ngàn khe
Dốc hết tinh anh.
Một đời cho thơ. NhỊp cầu trúc trắc
Mùa đông gọi nhau, cho nhau nước mắt *
Bừng dậy sức tàn, anh muốn làm thơ

Rừng lau già, trước gió phất phơ
Rồi cũng sẽ… biết là anh cũng sẽ …
Nhưng vẫn tiếc thương người lặng lẽ
Bỏ chốn trần gian, cỡi gió về trời

Biết là anh sẽ bỏ cuộc chơi
Mùa thu sẽ rơi đầy lá chết
Nấm mộ người thơ. Dừng bước chân mỏi mệt
Biên cương hành.
Vọng mãi khúc bi ca.

Nguyễn Thị Liên Tâm 
Phan Thiết, 27/5/2017

·       Mùa đông 2016, bạn bè Quán Văn ghé thăm Anh. 







Phạm Ngọc Lư tốt nghiệp QG/SPQN khóa 4 niên khóa 1965 – 1967, ra trường được chuyển về dạy tại Tuy Hòa – Phú Yên. Lư học sau tôi một khóa, nhưng với thị xã Tuy Hòa thuở ấy, nhỏ nhắn và yên lành – chúng tôi dễ gặp nhau và trở nên thân thiết vì tình văn nghệ, tình đồng nghiệp, đều từ phương xa đến.
              Thưở ấy, ở những tỉnh xa, thị xã nhỏ như Tuy Hòa, gặp thêm được bạn văn chúng tôi rất gần gũi và quý mến nhau. Có thể do số lượng anh em tham gia sinh hoạt còn ít, phương tiện di chuyển khó khăn, và cuối cùng, dường như ai cũng đang bị “buột chặt” với bao lo toan, bất trắc! Nhưng dầu chưa có dịp sum họp, cái tình văn sâu nặng vẫn đã có sẵn trong lòng mỗi người qua những sinh hoạt văn học nghệ thuật, qua tác phẩm của nhau, đã đọc, đã biết được…
              Ở Tuy Hòa, chúng tôi vẫn thường gặp nhau sau những giờ đến trường, ngày chủ nhật, hay ngày nghỉ lễ; với các bạn văn, bạn đồng nghiệp quê Phú Yên như  các anh Trần Huiền Ân, Đỗ Chu Thăng, Hoàng Đình Huy Quan, Nguyễn Phương Loan, Phạm Cao Hoàng, Phan Long Côn, Đàm Khánh Hạ, Khánh Linh (…). Sau nầy có Nguyễn Lệ Uyên đang dạy học ở Châu Đốc về thăm quê, có Võ Tấn Khanh từ Phan Rang ra thăm quê vợ. Thỉnh thoảng có thêm Lê Văn Thiện từ núi Sầm xuống, có Trần Hoài Thư, Lê Văn Trung, Phạm Văn Nhàn từ Qui Nhơn vô, có Thế Vũ, Trần Vạn Giã, Lê Ký Thương, Nguyễn Sa Mạc, Nguyễn Âu Hồng từ Nha Trang ghé lại, và  có thêm Triều Hạnh - một “nhà - thơ - học - sinh” mới tốt nghiệp trung học. Năm Lư về  Tuy Hòa thì Y Uyên chuẩn bị vào Thủ Đức, Bùi Đăng đang bị “thất lạc”…Dầu việc đi lại khó khăn là vậy, nhưng ở Tuy Hòa, chúng tôi cũng đã có nhiều dịp tiếp đón nhà văn Võ Hồng về thăm quê, chị Minh Quân, anh Doãn Dân, Lữ Quỳnh, Nguyễn Kim Phượng, Mai Thảo, Duyên Anh, Vũ Hữu Định, Tạ Chí Đại Trường (…). Tuy Hòa bé nhỏ, nhưng rất dễ thương là vậy! Mỗi lần có tin anh chị em văn nghệ từ phương xa ghé lại thăm, là y như chúng tôi đều có mặt, đều chia sẻ, đều vui mừng. PNL rất sốt sắn trong chuyện nầy…
              Tuy Hòa có vài quán café dễ thương, thoáng mát như Cây Phượng, quán Nhớ, Hoài Bắc…Buổi sáng, trước giờ đến trường, chúng tôi thường hẹn gặp nhau ở những quán café, hay quán ăn điểm tâm, để trò chuyện, thông báo cho nhau tin tức bạn bè, tin tức văn nghệ biết được qua sách báo, thư từ của nhau…Thuở ấy, chúng tôi ít có thói quen “cụng ly” ào ào với nhau như bây giờ, nhưng vẫn thường lai rai thâu đêm bên “cỏ may thần tửu”  trong sân vườn nhà một người bạn, hay trên căn gác gỗ của nhà thơ Khánh Linh! Những lần gặp, Lư đều có mặt, nhưng anh ít nói, cũng ít cười! Chỉ  thầm lặng nghe. Vui lắm, chỉ nhếch môi, không nghe tiếng. Gương mặt Lư thường có vẻ gì khắt khổ, đăm chiêu, lạnh lùng…Nhưng trong ánh mắt anh, tôi hiểu - sự chia sẻ, cảm thông, vẫn có thể biết được, qua những câu nói ngắn ngủi, mà chân tình! Qua những bài thơ tâm huyết của anh với giọng ngâm Huế da diết, có lúc rắn rỏi, khí khái. Có đôi khi, quanh quẩn trong cái thị xã yên vắng chỉ có vài con đường phố nhỏ, cũng thấy buồn - chúng tôi rủ nhau về thăm miền quê…Thăm nhà một người bạn, hay một vài người học trò yêu văn, thăm vài di tích Phú Yên.               
Gần Lư, tôi mới biết thêm người bạn đời của anh là người cùng quê Bình Định với tôi. Có lần về Qui Nhơn, Lư đã đưa tôi đến thăm nhà ở đường Nguyễn Huệ. Chúng tôi lại có thêm “sợi dây” đồng hương ràng buộc, ngoài tình văn, tình đồng nghiệp!
              Cũng như nhiều người, Lư lận đận từ sau năm 1975. Bẵng đi một thời gian dài gần 10 năm – bất ngờ, một buổi sáng Lư đã ghé An Nhơn thăm tôi.Vội vàng. Năm 1998, lang thang vào Saigon kiếm sống, tôi ghé thăm anh Trần Phong Giao - người thư ký tòa soạn tạp chi Văn năm xưa, được biết tin Lư đang lưu lạc từ quê nhà vào miền núi rừng Long Khánh để theo toán đào vàng; mạo hiểm để hy vọng tìm vận may, khi đã cùng đường! Rồi sau đó thất bại, trôi dạt đến Saigon, bây giờ là Đà Nẵng...
              Năm 2003, tôi gặp lại PNL ở Tuy Hòa cùng với với Nguyễn Lệ Uyên, Võ Tấn Khanh. Giống như tôi, Lư rất nhớ Tuy Hòa, luôn tìm dịp vào thăm. Tuy Hòa đối với chúng tôi là nơi mở đầu cho nghề Thầy, cũng như bắt đầu cho bao ước mơ văn chương đã được ấp ủ của một thời tuổi trẻ. Khoảng tháng 6 năm 2008, tôi có dịp ra Đà Nẵng, đã phone gặp Lư. Anh em ngồi lại mà ôn nhớ đủ thứ chuyện thăng trầm nơi chiếc quán café nhỏ; lòng ngậm ngùi, lạc lõng . Anh cho biết, để có thể ổn định đời sống, anh đã mở lớp dạy tư môn Anh văn, vợ bán buôn phố chợ…
         Gần khuya, Lư chở tôi trên chiếc Honda cũ về thăm nhà, quanh co bên kia cầu sông Hàn. Tôi gặp lại chị Quý – vợ anh, người vợ nặng tình của một nhà giáo, nhà thơ thât thế; nhưng trông chị rất vui khi nhắc lại chuyện cũ Qui Nhơn – Tuy Hòa, và những tháng năm không thể nào quên! Tôi đã biết chị rất đảm đang, chịu khó rất mực, trong những năm tháng lao đao…
              Lúc nầy, ngồi nhớ lại - hình ảnh PNL còn đọng lại trong tôi vẫn là một dáng dấp thầm lặng, cô đơn…
              Và, tôi vẫn thường tự hỏi: “Chúng ta đều là những kẻ cô đơn chăng?”

MANG VIÊN LONG

Bình Định, 27.5.2017







Tên thật Phạm Ngọc Lư, bút hiệu khác Phạm Triều Nghi. Sinh năm 1946 (Bính Tuất) ở Vinh Xuân, huyện Phú Vang, tỉnhThừa Thiên. Nơi ông sinh là một làng nhỏ vùng duyên hải cách thành phố Huế khoảng 30 cây số về hướng Ðông Nam. Ngay từ thuở ấu thơ, Phạm Ngọc Lư đã được cha và người bác truyền dạy chữ Hán.

Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học và Ðại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy học ở Tuy Hòa. Năm sau, 1968, theo lệnh động viên ông nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức. Sau 9 tuần ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành giáo dục. Bắt đầu viết năm học đệ tứ. Có bài trên các nguyệt san, tạp chí Nghệ Thuật, Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Khởi Hành, Ý Thức, Tuổi Ngọc…

Tác phẩm đã xuất bản:
– ĐAN TÂM (Thư Ấn quán 2004)
– MÂY NỔI (tự in 2007)

Sau năm 1975, Phạm Ngọc Lư bỏ nghề dạy học. Từ đây, hoàn cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng cay, tủi nhục ấy. Và Ðà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân cuối, không chỉ riêng ông, mà còn của nhiều thi nhân lỡ bước khác. Gần đây có tin Phạm Ngọc Lư bị bệnh. Chúng ta cầu chúc ông sớm bình phục.

Nghĩ về nhà thơ Phạm Ngọc Lư, Cung Tích Biền viết: Ông xuất hiện khá sớm trên văn đàn Miền Nam, trước 1975, qua các tập san văn chương; trong dòng văn học phóng khoát, bay bổng. Thơ buổi này? Là của nửa lãng mạn, và nửa kia của Lửa, trong đấu tranh sống còn. Mỗi tâm thức là nghìn gạn hỏi về phận người trong một Việt Nam phân ly Bắc-Nam. Một Việt Nam bị cuộc chiến ác liệt, vừa của bom đạn máu lửa vừa của ý thức hệ thù nghịch. Nó thách thức và ngăn cách toàn triệt với hạnh phúc; lại rất gần gũi trong ý nghĩa lưu đày.

Nhưng đây cũng là thời kỳ may mắn cho những ai làm văn học nghệ thuật, đương nhiên là ở Miền Nam. Vì cái thực tế nơi đây, là đầy rẫy rủi ro lại phong phú những mong chờ. Rất nhiều cảm thán về thân phận nhưng cũng thừa những nụ cười về nghịch lý đời thường. Và, vì họ được sống, được làm Người Sáng tạo, trong một môi trường tự do. Có nghìn tự do lựa chọn. Có biển tư tưởng để tương phùng. Và trên hết, từ một thế giới rộng mở, đa dạng, sầm uất những phát biểu, họ tồn tại trong đầy đủ ý nghĩa của Tồn Tại. Phạm Ngọc Lư là một Ðóa Hoa, trong vườn hoa sắc màu hoằng viễn này.

Hồi ấy, hơn ba mươi lăm năm trước, tôi đọc thơ Lư mà chưa hề có dịp gặp mặt. Cứ nghĩ, anh là một người giàu trầm tư, vừa sống vừa phiêu bồng thấy ra:

Ngàn sau hồn chữ rêu phong
Miên man thiên địa… tấc lòng du du…
Phạm Ngọc Lư

Năm 2008, gặp Phạm Ngọc Lư ở Ðà Nẵng, Cung Tích Biền ghi nhận: Một làn da trắng lấm tấm bụi phong trần. Một khuôn mặt xương xương khắc khổ. Một giọng nói mềm của Huế. Một thân người mảnh mai. Duy đôi mắt sáng, một vầng sáng đã xám đậm những rêu đời. Ðó là chân dung Nhà thơ Phạm Ngọc Lư. Tôi cũng rất mừng là anh còn sáng tác. Và cái tốt đẹp trên cùng, là anh còn giữ được chừng mực cái tinh túy Chính-Mình.

Phạm Ngọc Lư, qua thời cuộc thăng trầm, làm thân phiêu dạt, nhưng không hóa ra bọt bèo. Mà anh đã minh triết nhận ra cái Tính Lý của cuộc Sinh – Diệt:

Đất đá thở ra mùi u uất
Bốn bề hun hút rợn màu tang
Ai chết quanh đây mà cú rúc
Mà cơn gió lạnh réo hồn oan
Ai trong muôn dặm không về nữa
Cố lý mười năm mộng bẽ bàng
Cố lý hành – Phạm Ngọc Lư


Nguồn: Báo Trẻ online






biên cương hành chí h th
ngôn ngữ thơ di ly mt đi
người v bn quán nhà tan nát
tâm tư ưu ut tháng năm trôi

ngồi đây mi bn chung rượu đng
kẻ sĩ đp gai giày c qua sông
xa bao năm một ngày thoáng gp
gió phi trường bình đnh
cát bay bay
vội vàng tay vy không hn li
thuở y bi đường lm tai ương
ta theo trận mc v an phú
thời xuân thu
sớm bin chiu rng

bước đi la tình sp cn
nhìn lại mình rách nát tang thương
bạn tôi chí ln mài gươm bén
chảy máu đời thơ bui ch tàn

ai hiểu cho mi đi tht chí
chung rượu này đi m vi ai
đêm xưa gác tr vài ba đa
chơi mt phùa sng khoái
tan hàng

nay hong bếp cũ tro than lnh
nhìn đăm đăm vách lá chơ vơ
chỉ thy tháng ngày xuôi lp lp
đời mi trôi qunh qu vào ra
nhớ bn đêm v đau vết ct
dấu đi qua dao nhn ca vào tim
ta qua cầu nhìn giòng sông khp khiểng
máu về tim nhp đp luân hi
đêm nay ngâm lại biên cương trn
hành phương đông ut hn ngút ngàn
mây đùn kìn kịt t đt kh
vó ngựa cao nguyên đ xóm làng

cung đàn xưa ai người tri k
chiếu bc đi soi ni đng cay
giông bão đời xoay
gãy rồi bút bc
đời sang trang khép
khúc oan tình
hình như gió thi qua liếp ca
vi vu nghe tiếng gi trùng khơi
gọi ai nơi tn cùng biên tái
mây khói tàn tro phủ tượng đài
ta rơi giòng l v chn cũ
dấu giày thô ngươi tr quê nhà

Cái Trọng Ty
Texas, May 26 2017








Vậy là anh ra đi
lúc mười tám giờ năm lăm phút ngày thứ sáu 26.5.2017…

Sáng nay em đến thăm anh
Mang hoa ưu đàm ngàn năm mới nở để cầu cho anh một sự bình an
Anh nhìn em vui mừng mỉm cười
rồi phều phào nói mệt
Và đàm tràn lên khí quản, anh thở bằng oxy mà vẫn nặng nề
Thấy anh mệt, em khuyên anh chợp mắt ngủ ngon
Anh gật đầu cầm tay em siết chặt rồi nhắm mắt dưỡng thần
Em se sẽ bước đi
Gởi thư báo tin bè bạn
Ai cũng reply mong PNL qua cơn biến nạn…

Chừ anh nằm đó bình yên
như ngủ
Anh ngủ giấc ngàn năm quên “biên cương hành” bi tráng, quên “ngập ngừng sông núi“, quên cõi mộng “phù dung“, để ngày kia chị đưa anh về “trở lại bến Tam giang“… (*)

Thôi anh ngủ yên
Hôm nay trời mưa, gió mát
Cố lý hành“, thôi nhé “biệt cố nhân“!… (*)

Nguyễn Quang Chơn
Đà Nẵng, 26.5.2017

(*) những chữ in nghiêng là tựa đề thơ PNL
Nhà thơ sẽ được đưa về mai táng tại quê nhà Phú Vang, Thừa Thiên, Huế, ngày 31.5.2017







thật vậy sao?
vừa đây. tin từ ai, không nhớ…
bác sĩ chê bệnh Phạm Ngọc Lư
đã cho về…
kỳ lạ thay. về nhà, anh lại khỏe ra
chưa kịp mừng anh, vì chưa quen biết
nên tin anh mất. cũng bàng hoàng…

biết anh qua tập thơ Đan Tâm
nhà thơ Trần Hoài Thư gửi cho. năm trước
thơ anh ngang tàng. đẹp
bàng bạc… tráng sĩ. về. ở ẩn
cam chịu một số phần
không may. nhưng bất khuất.
hình ảnh anh qua clip tiếng hát Thu Vàng
khi đến thăm anh, cùng Nguyễn Quang Chơn. năm ngoái
cô cũng thăm giùm các bạn ở xa
như Đỗ Hồng Ngọc
và bạn bè của một thời hoạt động văn nghệ cùng anh
Thu Vàng đã hát từ trái tim
mong vực anh dậy
từ một căn bịnh hiểm nghèo
hình ảnh đó. tiếng hát Thu Vàng
đã đổ lệ bạn bè. đổ lệ anh…

vài hôm nay, Nguyễn Quang Chơn làm thơ
khi không. cầu nguyện cho “bạn bè”
được bình an, mạnh khỏe…
sáng nay, anh Chơn @ nhắc đến tên một loài hoa lạ
ngàn năm mới nở một lần
hoa Ưu Đàm, tên đẹp quá!
loài hoa trắng li ti như hoa tuyết
bỗng nở giữa nắng hè. bám chặt trên kính xe
suốt đoạn đường…
tin tưởng vào bao dung của Phật Trời
phó mặc cho
loài hoa dị kỳ
che chở. giữ gìn anh
bạn bè cùng cầu nguyện…

như hạt bụi nhỏ nhoi
anh về với đất trời.
nằm chơi dưới một hàng cây
Lao xao lá, lá thơ ngây chuyện trò
nằm thanh thản một nấm mồ
” *
mai đây. phủ kín dưới hoa ưu đàm…
….
* nhỏ nhoi hạt bụi, thơ Phạm Ngọc Lư khóc con Phạm Các Khuê.


duyên
Michigan, 26.5.2017

_______________________

T  I  N   B  U  Ồ  N

Chúng tôi vừa nhận được tin buồn:

NHÀ THƠ
PHẠM NGỌC LƯ

ĐÃ QUA ĐỜI VÀO TỐI THỨ SÁU, 26.5.2017 TẠI ĐÀ NẴNG
HƯỞNG THỌ 71 TUỔI. NHÀ THƠ SẼ ĐƯỢC ĐƯA VỀ MAI TÁNG 
TẠI QUÊ NHÀ PHÚ VANG, HUẾ  VÀO NGÀY 31.5.2017


Xin chia buồn cùng chị Quý và gia đình.
Nguyện cầu linh hồn người quá cố
sớm yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.


Trần Huiền Ân   Trương Vũ   Đỗ Hồng Ngọc   Lữ Kiều   
Lê Phương Nguyên   Lữ Quỳnh   Phạm Nhuận   Hải Phương
Nguyễn Tường Giang   Trần Hoài Thư    Phạm Văn Nhàn   
Nguyên Minh   Cao Thoại Châu   Nguyễn Quốc Thái
Thành Tôn   Luân Hoán   Trần Doãn Nho   Hoàng Lộc   
Nguyễn Xuân Thiệp   Nguyễn Trọng Khôi   Quan San   
Khuất Đẩu & Huyền Chiêu   Từ Hoài Tấn   Lê Văn Thiện 
Bắc Phong   Huỳnh Ái Tông   Nguyễn Miên Thảo   Viêm Tịnh 
Hoàng Xuân Sơn   Duyên & Tùng    Hạ Đình Thao
Lãm Thúy  Trần Thị Nguyệt Mai    Nguyễn Quang Chơn
Nguyễn Sông Ba   Lê Ký Thương   Đặng Kim Côn   
Thu Vàng   Nguyễn Thị Thanh Bình      Hoàng Thị Bích Ti     
Thân Trọng Sơn   Nguyễn Lệ Uyên    Nguyễn Âu Hồng     
Hà Thúc Sinh   Nguyễn Dương Quang   Gia Nguyễn
Lê Văn Trung   Ngô Phan Lưu     Tô Duy Thạch
Đỗ Trường   Mai Quang   Nguyễn Đức Nhơn   Văn Công Lê   
 Tôn Nữ Thu Dung   Nguyễn Thị Khánh Minh   Triều Hạnh
Trần Bang Thạch   Nguyễn Lương Vỵ   Võ Chân Cửu
Lương Thư Trung     Phan Xuân Sinh   Cái Trọng Ty  
Lê Thị Ý   Tô Thẩm Huy   Phan Ni Tấn   Hồ Đình Nghiêm
   Trần Phù Thế   Nguyễn Thanh Châu   Hoài Ziang Duy
Thúy Phương   Đoàn Văn Khánh   Trương Văn Dân & Elena  
Mang Viên Long   Trần Yên Hòa   Huỳnh Hữu Võ   
 Nguyễn Minh Nữu   Võ Tấn Khanh   Phạm Cao Hoàng & Hoa