Thursday, February 5, 2015

1472. WISLAWA SZYMBORSKA (Nhà thơ Ba Lan) Sống để làm thơ - Làm thơ để sống (Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu)









73 tuổi, 51 năm cầm bút, hơn 200 bài thơ in trong hơn 10 tuyển tập. Những con số này liên quan đến nhà thơ nữ người Ba Lan WISLAWA SZYMBORSKA vào thời điểm tháng 10 năm 1996 khi Bà bất ngờ được trao giải Nobel Văn học. Bất ngờ cho văn đàn thế giới, có thể bất ngờ cả cho đương sự, nhưng tất nhiên tổ chức quyết định giải thưởng có lý do về sự lựa chọn này:
      
“ Ở Szymborska Viện Hàn lâm Thụy Điển muốn vinh danh một đại diện – một đại diện có sự thuần khiết và sức mạnh lạ thường và cứng cỏi - của một quan điểm thơ ca. Của thơ ca với tư cách là một  phản hồi đối với cuộc sống, một lối sống, của nghệ thuật ngôn từ với tư cách là tư tưởng và trách nhiệm.” (1)
       
Giấy chứng nhận giải thưởng nêu rõ :
   
Giải Nobel văn học 1996 được trao cho W.Szymborska do thơ của bà đã cho phép tái hiện bối cảnh lịch sử và sinh học một cách chân thực đến (độ) mỉa mai trong những mảnh thực tại của con người. "
    
Wislawa Szymborska sinh ngày 2/7/1923 tại miền Tây nước Ba Lan, ở thành phố nhỏ Bnin ( hiện nay là một khu phố của Kornik ), gần Poznan. Từ năm 1931, bà chuyển về sống tại Cracovie, theo học văn chương Ba Lan và xã hội học tại đại học Jagellon, từ 1945 đến 1948. Bà bắt đầu đăng thơ vào tháng 3/1945 trên phụ trang hàng tuần của nhật báo Dziennik Polski với bài thơ Tôi tìm từ. Những năm hậu chiến, bà tiếp tục in thơ trong nhiều nhật báo và tạp chí. Từ 1953 đến 1981, bà tham gia ban biên tập tuần báo Đời sống văn học, giữ mục phê bình những tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau : từ du lịch, ẩm thực, nghề làm vườn và trò ảo thuật cho đến lịch sử nghệ thuật, thơ của T.S. Eliot và Edward Lear. Szymborska còn làm cả việc dịch thơ, nhất là thơ Pháp với Agrippa d’Aubigné ( 1552-1630 ).
       
Bà là hội viên Văn Bút ( PEN ) Ba Lan. Năm 1952 bà in tập thơ đầu tiên “ Chúng ta đang sống vì thế đó ”. Sau đó liên tục cho ra đời nhiều tập khác : “ Những câu hỏi cho mình” ( 1954 ) ; “ Lời kêu gọi Yeti” ( 1957 ); “ Muối” ( 1962 ); “ Tuyển thơ” ( 1967 ); “Trò hề” ( 1967 ); “Thơ” ( 1970 ); “Trường hợp bất kỳ” ( 1972 ); “Con số lớn” ( 1976 ); “Tuyển thơ II” ( 1983 ); “Những người trên cầu” ( 1986 ); “Kết thúc và bắt đầu” ( 1993 ).

Bà được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Adam Mickiewicz tại Poznan ( 1995 ), và đã được tặng nhiều giải thưởng văn học : giải thưởng Goethe của Đức ( 1991 ); giải thưởng Herder của Áo ( 1995 ); giải thưởng của Hội Văn Bút Ba Lan ( 1996 ).